Friday, December 11, 2020

Kinh Nhập Tức, Xuất Tức Niệm - Tiếp Theo và hết - TT Giác Đẳng giảng

 Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya

118. Kinh Nhập Tức, Xuất Tức Niệm

(Kinh Quán Niệm Hơi Thở) (Anàpànasati Sutta)(tiếp theo) 

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma  ngày 9 tháng 5, năm 2020

Minh Hạnh chuyển biên

Phần 3 

TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta bước qua phân đoạn khác nói về pháp niệm hơi thở và Thất Giác Chi. 

Thất Giác Chi, trước nhất trong Phạn ngữ gọi là Bojjhanga, bảy chi phần của tuệ giác, điều này, trước nhất chúng ta nên hiểu đó là một công thức để tuệ giác được thắp sáng. 

Thông thường, nhiều người nghĩ đối với trí tuệ đến rồi đi, đa phần do sự hên sui, ở trong hoàn cảnh đó tự nhiên mình sáng suốt, hay đôi khi gọi là thông minh đột xuất, là điều mình may mắn, còn mình không may mắn tự nhiên ma đưa lối qủi đưa đường, ở trong trường hợp đó mình lại tối tăm u mê. 

Nhưng kỳ thật, ở trong cái nhìn của thiền quán tuệ giác sanh khởi không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ hay do sự hên sui, mà đó là do những tố chất của tuệ giác, chúng ta tạm gọi là công thức. Giống như nấu một món chè, có người may mắn, nấu nước sôi, để đậu vô, rồi đề đường thêm vào, thì nó ngon, người đó không nắm rõ nguyên tắc nấu. Nhưng có người khác biết rõ nguyên tắc nấu, nấu lần nào cũng ngon bởi vì nắm rõ công thức. 

Tuệ giác có một vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình tu tập, nhưng mà, tuệ giác đối với một người hành thiền không phải là một sự may rủi mà là do sự kết hợp của nhiều tố chất. 

Trong chuyện Lục Mạnh Thần Kiếm của Kim Dung viết, Đoàn Dự, thái tử vua nước Đại lý học được lục mạnh thần kiếm tại chùa Thiên Long, nhưng chỉ ở trong một hoàn cảnh nào đó và bất kỳ xuất ý thì xuất chiêu được, còn bình thường bị người hiếp đáp đánh đập thì không có sức chịu đựng, thậm chí, người ta giết cha giết mẹ mình cũng phải chịu, vì không xuất chiêu được. 

Thì trí tuệ của phần đông chúng ta giống như lục mạnh thần kiếm của Đoàn Dự, có khi dùng được, có khi không dùng được. 

Nhưng mà kỳ thật thì, tuệ giác ở trong kinh Phật gọi là Bojjhanga, còn gọi là Giác Chi, là những tố chất hợp lại thành tuệ giác, hay những chi phần, chúng ta tạm gọi là những công thức, như muốn làm cái gì đó thì phải có những điều kiện kết hợp lại để thành tựu, chúng ta gọi đó là Bojjhanga, là Giác Chi.

Trước khi chúng ta đề cập đến Bẩy Giác Chi, đối với trong sự liên hệ, đối với pháp niệm hơi thở chúng ta nên định nghĩa  Bẩy Giác Chi là gì?

1 - Đầu tiên là Niệm Giác Chi.

Niệm Giác Chi là, khả năng bám sát thực tại. Bám sát thực tại ở đây có thể đạt sự chú ý của mình mà không để cho sự việc vuột khỏi sự chú ý của mình, gọi là Niệm Giác Chi.

Một thí dụ đơn giản, nếu tình cờ có ai nhờ giữ giùm đứa con nhỏ, khi một đứa nhỏ ở trong nhà mà mình không để ý thì nó có thể cầm vật lạ bỏ vào miệng nuốt, hoặc giả nó có thể kéo những đồ đạc ở trên kệ rớt xuống làm cho nó bị thương, hay làm bể đồ đạc trong nhà, thậm chí ở miền quê chúng tôi ở ngày xưa, nhà gần mương gần ao, không có hàng rào, con nít bị té xuống ao chết, thì như vậy, một người được giao trách nhiệm giữ đứa nhỏ bận thì bận, làm gì thì làm, nhưng luôn luôn để tâm theo dõi đứa nhỏ nó đang làm gì, và sớm khám phá kịp thời ngăn cái gì nguy hiểm xảy ra cho nó. Nói thì đơn giản, nhưng  để có một khả năng chú ý thường xuyên gọi là Niệm Giác Chi, gọi là Chánh Niệm, chuyện đó không đơn giản, 

Thứ nhất là, chúng ta không có thói quen theo dõi điều gì đó một cách liên tục.

 Thứ hai nữa là, chúng ta thường bị chi phối bởi những ý nghĩ vẩn vơ.

Nguyên tắc căn bản của người lái xe là luôn luôn ý thức được tình trạng của con đường, ý thức được chiếc xe nào chạy quá gần hay quá xa mình, bên hông có xe hay không, nhưng nếu một khi chúng ta vừa lái xe vừa trả lời điện thoại, hay tâm đang nghĩ vẩn vơ điều gì, có thể chúng ta lái xe bằng quán tính, bằng thói quen, nhưng khi tai nạn xảy ra thì mình phản ứng không kịp. Đó là trường hợp có nhiều người tại sao lái xe hay bị người ta đụng phía sau, là vì chạy tốc độ rất nhanh khi gặp chuyện cần thắng thì mình lại không chú ý có xe chạy sát ở phía sau đang chạy với tốc độ nhanh. Thì như vậy, căn bản của niệm là có khả năng bám sát thực tại. Khả năng bám sát thực tại này khiến cho thực tại trở nên rất rõ ràng.

Khi chúng tôi còn nhỏ có khi bị ông ngoại la rày, ông ngoại hay nói:

-  "Ờ trong nhà mấy đứa nhỏ thì đui, đứa lớn một chút thì có một con mắt, cha mẹ thì có hai con mắt, còn ăn trộm thì có bốn con mắt".

 Nghe ông ngoại rày như vậy cũng kỳ, sao nói mình đui hay một con mắt. Thì ông ngoại giải thích: 

- "Những đứa sống ở trong nhà, đồ đạc trong nhà còn cũng không biết, mất cũng không hay, không để ý chuyện gì hết, cái gì có, cái gì hư hao, cái gì cần phải sửa chữa, cái gì cần thu dọn phải cất, có nhiều khi đồ đạc quăn bừa bãi trời mưa làm hư chẳng hạn, những người lớn như cha mẹ thì biết có trước có sau. Nhưng người ngó kỹ đồ đạc trong nhà chúng ta, đó là ăn trộm bốn mắt". 

Tương tự như chúng ta thường sống nhưng không có nhận biết một cách rõ ràng về những gì đang xảy ra ở đây và bây giờ, mình làm, mình để ý vật gì ở chỗ nào đó thì mình cũng quên, chìa khóa mình không biết để ở đâu, lúc mình để xuống mình không để tâm vào chỗ đó. Và nhiều lúc mình nói một câu chuyện bị lạc đề mình cũng không biết mình đang nói cái gì, đang nói giữa chừng rồi quên đi. Hay hoặc giả sống mà mình bận tâm quá nhiều về những gì thuộc về quá khứ, còn hiện tại thì mình không có một rõ nét về cái gì đang xảy ra. 

Vì vậy chữ Sati là sự Chánh Niệm, đầu tiên là khả năng bén nhạy bám sát với thực tại bây giờ, và từ yếu tố của Chánh Niệm - Niệm Giác Chi, chúng ta lâu ngày trở nên tinh tế, đạt đến trạng thái thứ hai là Trạch Pháp Giác Chi.

2 - Trạch Pháp Giác Chi 

Trạch Pháp Giác Chi nghĩa là, sự tinh tế phân biệt, ở đây không đơn thuần là người ta chỉ cho mình, mà là một kinh nghiệm thực tế. Ví dụ như, một người không biết uống trà, đưa cho họ trà Thiết Quan Âm, hay trà Ô Long, hay trà Bạch Thành, trà nào đối với họ cũng là trà, đắng giống nhau. Nhưng với một người tinh tế thì có sự khác biệt, và sự khác biệt giữa thiệt và giả đôi khi nằm ở trong đường tơ kẽ tóc. Có những người có khả năng phân biệt tiền giả với tiền thật, họ phân biệt món ngon món dở. 

Chúng tôi nhớ có một lần đi chợ, đứng trước hàng bán cereal loại mễ cốc ăn sáng ngó tới ngó lui không biết chọn cái nào, thì có một bà Mỹ lớn tuổi đi ngang thấy chúng tôi bà chỉ và nói cái này ăn ngon. Nghe bà chỉ thì mình thấy cũng vui, cảm ơn bà và lấy ngay hộp đó để lên xe mua mang về, khi mang về thì chúng tôi cũng nói với Chư Tăng ở trong chùa là bà Mỹ tử tế chỉ cái hộp này ăn được, nhưng buổi sáng hôm sau khui ra ăn sáng thì các vị ở trong chùa nói, thật ra họ nói ngon chứ cái nào cũng giống nhau hết, ăn hai ba thứ đều thấy giống nhau. Thì chúng tôi thấy quả thật không khác gì với những loại cereal (ngũ cốc) mình thường ăn, nhưng sau này ở Mỹ lâu ngày, có những thứ mình ăn thậm chí oatmeal hai ba hiệu khác nhau nhưng cũng có hiệu này khác hiệu kia, mình phải ăn nhiều mới biết được. 

Thì chữ Trạch Pháp căn bản là một sự phân định, một sự lựa chọn, một thái độ rõ ràng giữa cái này cái kia nó khác biệt và, mình có sự lựa chọn. Trạch Pháp nói trong ngôn ngữ bình thường của mình là có sự tinh tế, như một người uống trà nhiều họ có thể phân biệt trà ngon trà dở, họ uống rượu vang nhiều họ phân biệt rượu vang ngon rượu vang dở. Sự phân biệt đó, sự tinh tế đó không đơn thuần qua ngôn ngữ mà là một sự tinh tế đến từ Chánh Niệm, không có Chánh Niệm người đó không phân biệt được. 

Thật ra, Trạch Pháp Giác Chi là dựa trên Niệm Giác Chi, và sau Trạch Pháp Giác Chi dẫn đến yếu tố Cần Giác Chi.

3 - Cần Giác Chi

Cần Giác Chi ở đây là một sự dứt khoát, một thái độ dứt khoát, chữ cần nghĩa là sự tinh tấn, nhưng sự tinh tấn trong đạo Phật được đề cập đến là một thái độ rõ ràng. Chữ cần trong Phật Giáo không phải là sự cố gắng đơn thuần. Chữ cần trong Phật Giáo định nghĩa có 4 yếu tố là: Thận, Trừ, Tu, và Bảo. 

Cần là cố gắng ngăn ngừa cái gì có hại.

Trừ là trừ cái gì có hại.

Tu là cái gì có lợi lạc mà chưa có thì làm cho có.

Bảo là cái gì lợi lạc có rồi thì gìn giữ.

Thì như vậy bốn chữ; Thận, Trừ, Tu, Bảo, là một thái độ rõ ràng, phân biệt sự lợi lạc và không lợi lạc, có hại và không có hại. Nói rõ hơn là thiện và bất thiện. Nhưng trong bất thiện có thái độ là ngăn ngửa và tiêu trừ, trong thiện thì cũng có cái gìn giữ và làm cho sanh khởi, đối với thiện thì cái chưa sanh khởi làm cho sanh khởi, cái sanh khởi rồi thì làm cho được tồn tại. 

Thì như vậy, chữ cần là một thái độ dứt khoát, Chúng tôi lấy một ví dụ, nếu chúng ta có một vật tầm thường, hay là, chúng ta không phân biệt được vật đó là vật tầm thường hay vật qúi, nó nằm ở một góc nhà hay nằm ở ngoài hè mình không quan tâm tới, nhưng một khi đủ sự hiểu biết đó là một con dao rất qúi, một cái mân rất qúi thấy con cháu để ở ngoài hè, cái này không thể để chỗ này được, mình phải đem cất đi, tại vì đó là vật qúi để đó lỡ người ta thấy đem làm việc này việc kia. Thì, thái độ dứt khoát là phải đem cất đi, thái độ dứt khoát ở trong đạo Phật gọi là cần, tức là chúng ta biết cái gì cần khẩn trương.

 Hay hoặc giả, một người không biết gìn giữ đồ ăn, thấy một tô thức ăn để bên ngoài, từ lúc còn ăn được cho đến khi hư, người đó không để ý, không phân biệt được. Nhưng với một người đủ sự hiểu biết,g cũng tô đồ ăn đó  không đem cất vô tủ lạnh, ngày mai này ăn sẽ bị đau bụng, vì nó sẽ bị hư và, tô đồ ăn đó nếu phải chuẩn bị nấu thì tốn rất nhiều công, tại sao không đem cất tủ lạnh để ngày mai còn ăn được hơn là để bỏ phí uổng đi. Thái độ dứt khoát đó gọi là Cần Giác Chi.

Thì Cần Giác Chi được sản sinh ra từ Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp là khả năng tinh tế phân biệt, khi khả năng tinh tế phân biệt rồi sẽ dẫn đến thái độ dứt khoát, làm cái gì cần làm, tránh cái gì cần tránh, đoạn diệt cái gì cần đoạn diệt, gìn giữ cái gì cần gìn giữ, làm sanh khởi cái gì cần sanh khởi. 

khi Cần Giác Chi tu tập đầy đủ, người đó đời sống bắt đầu có rõ nét trong sự thực hành, chúng ta gọi là Cần Giác Chi.

Sau Cần Giác Chi, hành giả tu tập yếu tố khác là Hỉ Giác Chi. 

4 - Hỉ Giác Chi

Hỉ Giác Chi ở đây là, sự hân hoan, chúng tôi nói trong ngôn ngữ bình thường là sự thoải mái. Có hai cách sống, một cách sống mình biết chuyện đó tốt nhưng mình làm vì bổn phận vì áp lực, hay hoặc giả là nói theo ông bà làm để trả nợ qủi thần. Bây giờ ngay cả một đứa nhỏ không thích học mà bắt nó đi học, mặc dầu nó cũng đồng ý là tốt nhưng đi học nó mệt mỏi chán chường, bữa nào được nghỉ học mừng quá. Có những người đối với việc hành thiền họ cảm thấy miễn cưỡng, khi họ làm cũng chẳng có gì vui với việc đó hết. 

Ngày xưa người ta nói, mình làm cái gì bị bắt buộc không bằng tự mình muốn làm, mà tự mình muốn làm không bằng mình vui mình làm. 

Thì Cần Giác Chi là thái độ dứt khoát, nhưng trong thái độ dứt khoát đôi khi đi ngược lại với thói quen, đi ngược lại bản năng của mình, đôi khi chưa có đủ sự thoải mái hoàn toàn. 

Nhưng Hỉ Giác Chi là một tâm trạng rất ư thoải mái, làm một cách hân hoan, làm mà không có nặng nề. Chúng tôi thưa như vầy là ở chùa Pháp Luân cách bờ biển 1 tiếng, bản thân của chúng tôi thì có một thói quen là khi nào mệt đi ra biển có một chút gió biển thì cảm thấy khỏe, do vậy những lúc mệt chúng tôi thường lái xe ra biển, ở trong chùa cũng có những vị cảm thấy đi biển là tốn công tốn sức, tại sao mệt thì nghỉ ở nhà cho khỏe sao phải đi biển, hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Thì ở đây, không phải chuyện ai đúng ai sai, khi nào mình cảm thấy vui với việc gì, mình cảm thấy hoan hỉ việc gì, mình làm việc đó rất nhẹ nhàng, mình không làm với thái độ gọi là trả nợ qủi thần, nghĩa là cái nào miễn cưỡng hay cưỡng cầu.  

Hỉ Giác Chi là sự hân hoan, mình làm việc đó một cách thoải mái, lúc đó  một bước chúng ta thật sự thể nhập, mình thật sự cảm thấy sống với điều đó, đối với mình nó gần như người đồng hành một cách thân thiết, mình không còn cảm thấy gượng gạo hay khó chịu nữa đối với sự thực hành gọi là Hỉ Giác Chi.

5 - Tịnh Giác Chi (Khinh An Giác Chi).

Sau Hỉ Giác Chi chúng ta đến một yếu tố tiếp theo, đó là một yếu tố một công đoạn là Tịnh Giác Chi. Trong tiếng Phạn, có chỗ dịch là Khinh An Giác Chi, có chỗ Tịnh Giác Chi. Chữ Tịnh có nghĩa là sự lắng đọng không còn tuế toái không còn phiền hà, chúng ta tạm gọi là mình có thể sống trọn vẹn.

Chữ Khinh An là sự nhẹ nhàng, khinh khoái, ví dụ, mình đi đâu về người mình mồ hôi, cảm thấy khó chịu, mệt mỏi, mình vô tắm một cái trút đi cái dơ trong người, mình cảm thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Đó gọi là khinh an. 

Thật ra, chữ tịnh và chữ khinh an đều có thể dịch từ chữ Hán, qúi Thầy miền Trung có dùng một chữ là chữ rổng rang, hơi khác với chữ thanh thản, chữ rỗng rang là chữ gần với chữ khinh an. 

Chúng tôi lấy một ví dụ, một người thiếu nợ thẻ tín dụng tháng nào tới tháng cũng phải trả tiền, hay là đóng hụi chết chẳng hạn, nó thoải mái khi mình trả hết nợ, mình cảm thấy nhẹ nhàng. Hoặc giả, một người nào đó bị đau bị nhức, bị chứng bịnh kinh niên rồi tự nhiên gặp thầy gặp thuốc chữa hết, và từ cảm giác mà lâu nay bị chứng bịnh trì kéo làm cho mình bị mệt mỏi, bây giờ không còn nữa chúng ta cảm thấy thoải mái gọi là khinh an  (Passadhi) là một sự nhẹ nhàng không bị phiền nhiễu không bị cảm thấy như cuộc sống đi vào một giai đoạn mình không còn bị trì trệ, không bị níu kéo bởi điều phiền hà nữa, đó gọi là Khinh An Giác Chi.

Khinh an như một ngưỡng cửa đi vào sự giải thoát, sự chuyển hóa rất cần đối với những thói quen tập khí trong quá khứ của mình. Ví dụ, có những người quen lăn xăn mới vui, bây giờ không lăn xăn cảm thấy đời sống mình khó chịu tại vì như thiếu cái gì, nhưng một khi đạt đến khinh an rồi thì thói quen lăn xăn trong quá khứ không còn chi phối nữa, trái lại mình cảm thấy không lăn xăn như vậy là khỏe hơn.

 Ngài Mahasi Sayadaw có ví dụ, một người nghiền thuốc lá, khi hút thuốc lá mình cảm thấy hạnh phúc, khi bỏ hút sẽ có giai đoạn làm mình khó chịu. Nhưng một khi đã tự tại, thì chuyện khó chịu không còn nữa, không còn bị bệnh ghiền hành hạ nữa, lúc đó mình cảm thấy cuộc đời hạnh phúc. Đó gọi là một sự khinh an.

Từ chỗ khinh an đó đến một công đoạn mới gọi là Định Giác Chi. 

6 - Định Giác Chi

Chữ định ở đây có nghĩa là tập trú, tập trú bền bỉ ở trên một cái gì đó, nếu chúng ta chỉ tập trú trên một khoẳng khắc hay trên một giai đoạn ngắn, không gọi là định. 

Định là định của định tâm sở, định an chỉ, định lâu bền. Thành ra chúng ta nói một sự bền bỉ là một chuyện khác. Tương tự, một người Phật tử mới đi chùa, phát tâm làm việc chùa, vào tụng kinh nghe pháp một buổi, thì thấy bình thường không có chuyện gì, nhưng nghe pháp lâu phải có những tố chất để khiến cho người đó tiếp tục nghe pháp, còn nếu nghe pháp chỉ là nghe pháp, thì mới đến nghe vị thầy nói thì ráng ngồi nghe, nhưng nghe vài ba bài pháp rồi tự nhiên tâm không còn chú ý, tâm không còn đức bền nữa. 

Chúng tôi biết là Sư Nguyên Thông có tán thán một số qúi Phật tử ở đây nghe pháp mười mấy năm, thậm chí có vị đã sinh hoạt hai mươi năm, thì sự bền bỉ đó là chữ định là Định Giác Chi. Nghĩa là một khi mình thật sự thoải mái, nhẹ nhàng và, chính sự nhẹ nhàng ở trong chữ Hán gọi là khinh khoái, tức là nhẹ nhàng mình có thể sống với người đó một cách bền bỉ, gọi là định. 

Ở đây, chúng ta nên hiểu chữ "gối đầu", nghĩa là khả năng tập trung và tập trung bền bỉ, nó không còn phải bắt buộc, sự bắt buộc như một số người cố gắng tập trung như một người chưa quen niệm hơi thở, ngồi xuống niệm hơi thở thì phải cố gắng lắm, cố gắng đó làm cho chúng ta bị cạn kiệt năng lượng của mình, cố gắng làm cho chúng ta bị căn thẳng. 

Nhưng cái định của một vị gối đầu lên trên Khinh An Giác Chi, định đó là do được an tịnh và do sự an tịnh này nên tạo sự bền bỉ. Tương tự, một người có thể làm việc gì đó ở trong mười năm, hai mươi năm và vẫn cảm thấy an lạc, tại vì họ thấy ở đó có chất liệu khiến cho họ hạnh phúc và, hạnh phúc đó khiến cho họ có thể tiếp tục đi tới một cách bền bỉ.

 Chúng ta nhớ như vầy, bẩy pháp Giác Chi này, không có một Giác Chi nào là chủ đạo, mà tất cả đều là những thành tố, những yếu tố kết hợp lại nhưng nó mang tính tuần tự, thì Định Giác Chi ở đây phải là gối đầu ở trên Khinh An Giác Chi. Sau Định Giác Chi là Xả Giác Chi.

7 - Xả Giác Chi.

Chữ Xả ở đây rất dễ hiểu lầm, một ở trong những từ vựng Phật học hay hiểu sai đó là chữ "xả". Chữ xả nghĩa là, không khổ, không lạc, thì là xả. Chữ xả này gọi là thản nhiên. Bây giờ nếu chúng ta có chuyện gì phiền lụy thì chúng ta khổ, chúng ta bực bội. Có chuyện gì hào hứng vui vẻ thì gọi là hỉ, không khổ, không lạc, là xả. 

Xả thuộc về cảm thọ, chữ xả này chúng ta không nói tại đây.

Chữ xả nghĩa là buông xả, buông bỏ, thì chữ xả này cũng không phải trong bài học này.

Chữ "Xả" trong Xả Giác Chi, được hiểu là một khả năng quân bình, nói cách khác là sự an nhiên, một sự điềm đạm. Chữ an nhiên điềm đạm này do sự vững chãi mà ra. 

Khi nào chúng ta làm một việc gì đó, chúng ta thường đặt vấn đề là mình làm việc đó hào hứng, khi không có hào hứng thì chúng ta rơi vào trong tình trạng lãnh đạm, sự lãnh đạm đó không phải là xả ở tại đây. Xả tại đây là một thái độ có khả năng làm đặc biệt gì đó mà làm một cách rất đẹp, làm một cách  chính xác, nhưng làm không còn vì sự sôi động, sự kích động của hào hứng nữa, đó gọi là xả. 

Có rất nhiều ví dụ về chữ xả của bài kinh. Ở trong Sớ Giải định nghĩa xả giống như một người đánh xe song mã có hai con ngựa kéo xe, cái khéo của người đánh xe làm sao hai con ngựa song hành, không con nào trước, không con nào sau, nếu có một con chạy trước sẽ làm mất quân bình.

Xả là một khả năng quân bình, hay hoặc giả, một người hát xiệc đi trên sợi giây, họ hiểu chuyện đi từ đầu giây này qua đầu giây kia rất cần sự quân bình, không nghiêng về bên nào, vẫn đi tới, không có sự nghiêng về một bên, đó gọi là Xả Giác Chi.

Xả Giác Chi, được xem như cao điểm của cảm xúc, cao điểm của sự thuần thục, và cao điểm của tuệ giác. Đây là một mấu chốt rất khó diễn tả khi chúng ta chưa trải qua một cái gì đó. Chúng tôi lấy ví dụ, Phật tử mới phát tâm đi chùa, thì đi chùa, tại sao họ phát tâm đi chùa, tại vì chùa vui, mình siêng đi chùa. Nhưng một khi nào đó mình vẫn đi chùa không phải vì vui, không phải vì nhu cầu cá nhân, đi chùa làm công quả, vẫn nghe pháp, vẫn tu tập như mọi thứ, nhưng tâm lúc đó không phải là có hào hứng mới đi, phải có vui mới đi, phải bạn bè rủ mới đi, phải có người ta khen mình mới đi, mà là mình đi là đi thôi. Thật khó diễn tả, nhưng nó là trạng thái kết tinh của tất cả những cảm xúc sau khi đã sào nấu xong, sau khi đã tôi luyện, đã trải nghiệm rồi, cái còn lại đầy đủ tinh túy, đầy đủ chất liệu, đẹp nhất và người đó không còn đặt ra nhiều điều kiện với mình nữa, lúc đó gọi là Xả Giác Chi. 

Chúng tôi lấy một ví dụ, đa phần hạnh phúc của chúng ta, hay mình làm việc gì đó, mình tự đặt cho nó một điều kiện, nếu có một người bạn rủ tôi đi chùa tôi sẽ đi, nếu đến một nơi nào đó tôi cảm thấy không khí của thiền viện thích hợp thì tôi sẽ tu thiền, nếu quyển sách đó cho tôi một cảm giác đọc dễ buồn ngủ tôi sẽ đọc. Tất cả điều đó nó đều có điều kiện và, cái vui cái buồn của chúng ta dựa trên những điều kiện đó chứ không dựa trên giá trị thật sự điều kiện đó.

Khi một hành giả có khả năng sống với sự thật, đây là sanh, đây là diệt, vị đó có đủ khả năng để sống với giây phút này, ở đây, nhưng không đặt để điều kiện gì hết, không nói tại sao mình phải làm, một cách rất tự nhiên, một cách thoải mái thì, người đó được xem như là có nếm ít nhiều tinh túy của Xả Giác Chi.

Bảy pháp này là Bojjhanga, 

Chữ bojjh ở đây là tuệ giác 

Chữ anga là chi phần.

Chi phần của tuệ giác gọi là Bojjhanga.

Bảy điều này là, cộng hưởng, kết hợp, tạo nên mẫn tuệ, sự minh triết, hay là tuệ giác. 

Ở đây không nói rằng con người mình khôn, thông minh đột xuất, hay tự nhiên tuệ giác ở trên trời rớt trúng, hay ai cho mình, mà tuệ giác ở đây là một sự kết cấu đầy đủ của những yếu tố, những chi phần. 

Chúng tôi có đề cập ở ban đầu là, có những thiện pháp, có những tố chất ở trong chúng ta, nhưng chúng ta không vận dụng được nó, nó đến nhiều khi do tình cờ và khi mình cần nó mình không đem ra sài được. Như chúng tôi lấy ví dụ ban đầu là trong chuyện của Kim Dung viết, Đoàn Dự học Lục Mạch Thần Kiếm nhưng lúc cần thì không xuất chiêu được, phải chờ đến một cái gì đó xuất kỳ bất ý, trong cơn thảng thốt tự nhiên xuất chiêu ra đánh được Cưu Ma Trí, nhưng lúc đó Đoàn Dự không có khả năng để xử dụng gọi là tùy nghi xử dụng. Khi mình không tùy nghi xử dụng được, không có tự tại trong việc xử dụng, loại trí tuệ đó không phải là thứ trí tuệ tinh liệt. 

Phải nói rằng, một người đã thành thạo, đã thực sự nhuần nhiễn một khí giới nào đó, có nghĩa là người đó có thể xử dụng điều đó như ý của mình, như là một người chưa biết về máy móc xe, đề máy chạy được là hên xui chạy được. Khi chúng tôi còn nhỏ ở nhà có máy đuôi tôm chẳng hạn, máy đuôi tôm không biết nguyên lý chạy như thế nào thì có khi mình giựt nó chạy có khi mình giựt hoài nó không chạy, nhưng một người giỏi máy móc, họ biết chỉnh cái này cái kia thì nó chạy theo ý của họ. Hai điều đó khác biệt nhau rất nhiều. 

Sự mẫn tiệp hay tuệ giác của chúng ta, nhiều khi chúng ta không nhận ra tại sao, trong trường hợp nào mình xử dụng được và, trường hợp nào mình xử dụng không được.

Áp dụng Thất Giác Chi vào trong cách thở vô thở ra (nhập tức xuất tức niệm).

Nếu chúng ta thấy rất rõ thì bảy giác chi khởi đầu với Niệm Giác Chi. Niệm Giác Chi là khả năng bám sát với thực tại. Hơi thở là một thực tại nhiệm màu. Tại sao hơi thở là thực tại nhiệm màu, bởi vì hơi thở lúc nào cũng có. Hơi thở có hai nhịp điệu, ra và vào, nó không quá đa đoan, bởi vì nó không có nhiều manh mối, nó cũng không quá muội lượt, tại vì nó có hai tiết tấu là thở ra và thở vào. Đối với phần đông chúng ta thì hơi thở là một đối tượng tiện lợi nhất, tốt nhất, luôn luôn có sẵn có và rõ nét nhất, để mình nuôi dưỡng chánh niệm. 

Đối tượng của chánh niệm ở đây là, sự lơ đễnh, sự lơ là, một sự lãng quên là chúng ta không đem tâm trở về. Sống ở đây nhưng tâm mình nghĩ đâu đâu. Thì Niệm Giác Chi đầu tiên giúp chúng ta trở về với hiện thực hơn, cảm nhận với thực tại hơn và, thực tại đó nó giản dị chỉ có, thở ra và thở vào, rất là giản dị và, đó là sự giản dị tốt nhất, mình bắt đầu với gì đơn giản.

Tại sao có nhiều người không niệm hơi thở được, tại vì khi họ ngồi xuống họ niệm là họ tự làm khó mình, họ đặt cho mình rất nhiều điều kiện, nào là mình phải có trường thiền lý tưởng, một vị thiền sư lý tưởng, một thiền thất lý tưởng, một tọa cụ lý tưởng, một bộ quần áo ngồi thiền lý tưởng. Tất cả điều đó, chẳng những người ta đặt nhiều điều kiện ở bên ngoài, ngay cả cách bắt đầu chúng ta cũng trở nên rất rối, niệm kiểu này niệm kiểu kia, nhiều khi có những sự tranh luận niệm về phồng xẹp. Niệm về hơi thở, người ta có nhiều  tranh luận khác nhau. Nhưng thật sự đầu tiên chánh niệm bắt đầu rất giản dị là làm sao biết rõ mình đang thở vô, biết rõ đang thở ra, thở vô thở ra.

Từ chỗ thở vô thở ra dần dà có sự tinh tế, mình nhận ra được thở vô dài ngắn, thở ra dài hay ngắn, sau cái dài ngắn đó chúng ta mới đi đến chỗ là mình có thể cảm giác toàn thân khi thở vô, cảm giác toàn thân khi thở ra, an tịnh thân hành, an tịnh tâm hành v.v... Như chúng tôi đã nói trong những bài trước về pháp niệm hơi thở.

Bây giờ thì do chúng ta cứ niệm và niệm thì từ chánh niệm đó sẽ tự nó sản sinh ra sự tinh tế, thì sự tinh tế này giúp cho hành giả vận dụng được hơi thở hai chiều.

 Chúng tôi nói hai chiều ở đây là như vầy, bình thường hơi thở bị tác động bởi tâm, lúc tâm mình sợ hãi mình thở khác, khi đang ham muốn thở khác, khi mình bực bội mình thở khác. 

Thì như vậy, ban đầu chúng ta chỉ ghi nhận hơi thở chịu ảnh hưởng bị tác động bởi tâm, nhưng, một lúc khi chúng ta đạt đến chỗ tinh tế của Trạch Pháp Giác Chi thì bước qua Cần Giác Chi, chúng ta lại có khả năng dùng hơi thở để chế ngự tâm, lúc bấy giờ nó không còn là một chiều nữa, mà đó là hai chiều, lúc đó hành giả tự biết mình thở như thế nào để tâm sân nguội xuống, thở như thế nào để sự sợ hãi nguội xuống, điều này rất khó ai chỉ cho chúng ta, nhưng chúng ta biết chuyển bại thành thắng, hay là chúng ta nói theo binh pháp là đổi thế cờ, thay vì để cho phiền não chi phối hơi thở, bây giờ chúng ta biết lật thế cờ lại, tức là chúng ta dùng hơi thở để áp đảo, đó gọi là Cần Giác Chi. 

Sự khác biệt giữa một người không niệm hơi thở và người niệm hơi thở là, người không niệm hơi thở khi gặp phiền não thì họ vận dụng trí tuệ họ vận dụng sự suy nghĩ, họ vận dụng luân lý đạo đức, vận dụng sự hiểu biết để áp đảo và không áp đảo được. Ngài Ajahn Chah nói: "nếu chúng ta có thể ra lệnh cho mình đừng tham nữa, đừng sân nữa, thì mình đã thành Phật rồi". Hành giả biết rằng mình không thể nào ra lệnh cho chính mình. Thành ra hành giả sẽ có thái độ với phiền não là, không phải bằng sự suy nghĩ, mà hành giả có thái độ đối với phiền não bằng, Chánh Niệm Trạch Pháp và qua Pháp Quán Niệm Hơi Thở. 

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật thí dụ về con chim cáy, chim cáy là tiếng miền Bắc, miền Nam gọi là con chim ri, chim cúc. Câu chuyện như vầy, con chim cáy nhỏ thường hay bị chim ưng vồ, con chim cáy có đặc tính khi người ta cày ruộng thì côn trùng ở dưới ruộng bị lộ diện trên những luống cày, con chim cáy nhân dịp đó mổ ăn những con côn trùng đó. Khi người ta mới cày ruộng, lúc người ta đào sới những miếng đất trống thì có một số các con chim bay xuống đề ăn những côn trùng, con chim cáy cũng vậy. Nhưng con chim cáy lại là miếng mồi ngon của chim ưng, chim ưng từ trên cao thấy con chim cáy thì xà xuống chụp chim cáy để ăn, đó là cảnh tượng chúng ta thường thấy. Đức Phật Ngài dạy rằng con chim cáy khôn ngoan không bao giờ chạy ra chỗ đồng trống, nó luôn luôn mượn thế luống cày, khi chim ưng xa xuống thì chim cáy chạy vào núp ở những luống cày, do đó không bị chim ưng vồ bắt ăn nó. 

Thì chuyện con chim cáy núp trong những luống cày giống như một hành giả biết trú ẩn ở vùng đất của tổ phụ, biết trú ẩn ở trong bản địa của mình, biết trú ẩn trong căn cứ địa của mình. 

Vùng đất của tổ phụ là gì? Có nghĩa là một nơi chúng ta quen thuộc địa hình địa vật, một nơi mình có thể chống cự để đương đầu lại, giống như con chim cáy nhỏ bé không móng vuốt và không nhanh nhẹn như chim ưng, nhưng nó biết lợi dụng những luống cày để che chắn, đó là một nơi an toàn. 

Khi hành giả đã có sự thuần thục quen thuộc với hơi thở, và có đủ Trạch Pháp Giác Chi, có đủ sự tinh tế, thì khi phiền não xảy ra hành giả có thể xử dụng hơi thở là một bản địa, xử dụng hơi thở là vùng đất của tổ phụ. 

Chữ dùng hơi thở là một căn cứ địa mà mình quen thuộc để đương đầu với phiền não, người ta nói "mạnh dùng sức, yếu dùng mưu", ở trong trường hợp chúng ta không có khả năng để đối phó phiền não, không thể ra lệnh cho phiền não và không thể đánh tay đôi với phiền não, chúng ta phải mượn địa hình thích hợp để ẩn náu.

Thì ở đây, địa hình thích hợp cho hành giả là hơi thở, một lần nữa hơi thở mình bám trụ, nếu mình đủ sự thuần thục, đủ sự quen thuộc với hơi thở thì sẽ không bị giao động nhiều, mình sẽ đủ sự tỉnh táo để câu thời gian để chúng ta vượt qua những hiểm nạn khó khăn tạo ra cho mình, gọi là Cần Giác Chi.

Chúng ta nhớ cần ở đây là thái độ rất dứt khoát, ngay khi hành giả có được những khả năng, để đương đầu, để né tránh sự chi phối bên ngoài dựa trên hơi thở, thì hành giả cũng đạt đến Hỉ Giác Chi, lúc bấy giờ sẽ sống với hơi thở một cách rất thoải mái. Như chúng tôi sống tại thành phố Houston, một nơi mùa hè thì nóng bức, mùa đông lạnh buốt, rồi mình có một căn nhà có máy điều hòa, có tiện nghi thì tự nhiên căn nhà đó là một nơi an ổn của mình, nghĩ đến căn nhà mình cảm thấy có thể hân hoan, khi mưa to gió lớn, khi trời nóng trời lạnh, có thể che chắn được. 

Hành giả phải có thái độ hoan hỉ đối với hơi thở của mình và thoải mái, không xem chuyện mình sống với hơi thở là một điều miễn cưỡng, không xem đó là một sự cưỡng cầu, mà xem đó là một sự kết hợp và, sự kết hợp đó khiến cho hành giả đủ lực để tiếp tục đi tới gọi là, Hỉ Giác Chi.

Tịnh Giác Chi đối với hơi thở của hành giả là, lúc bấy giờ khi mình ngồi xuống tập trú vào hơi thở, mình cảm nhận được, sự rỗng rang, sự không phiền toái. 

Chúng tôi nhớ rằng ngày xưa ông ngoại chúng tôi có một câu chuyện là ở nhà có miếng đất ở xa, và trong miếng đất đó ông ngoại cất một căn chòi, đôi khi sống ở trong nhà có những chuyện phiền não của vợ con hay hàng xóm này kia, thì ông ngoại thường lấy một ít trà bỏ vào khăn mang theo và đi đến căn chòi, ra giữa đồng trống mênh mông với đồng ruộng bạc ngàn, ở trong một căn chòi. Ông ngoại kể, lúc đó sống thấy cuộc đời rất là thảnh thơi. Hồi nhỏ chúng tôi không hiểu thành thơi của một người sống trong một căn chòi nghĩ rất là buồn, nhưng lúc đó, là cảm giác của một người không còn bị chi phối, bị ràng buột, bị nhiều hệ lụy, thì hành giả cũng đạt đến mức độ như vậy.

 Nên nhớ rằng:

Tịnh giác chi, hay Khinh An Giác Chi, là làm cho tuệ giác sanh khởi, nó là nền để cho Định Giác Chi sanh khởi, và cho Xả Giác Chi sanh khởi, và hành giả có khả năng bền bỉ với hơi thở, bền bỉ đó gọi là Định Giác Chi và Xả Giác Chi là khả năng cuối cùng. Lúc bấy giờ Xả Giác Chi của hành giả niệm hơi thở là cho dù đang ngồi thiền mà tiếng động lớn ở bên ngoài, hay mình ngồi thiền có người ngồi kế bên họ gáy lớn, hoặc giả là một cơn đau thì nó không làm cho mình bị giao động, mà mình đón nhận tất cả, nó như vậy thì phải là như vậy.

Minh Giải Thoát

Đây là một điểm, Ngài Ajahn Chah nói rằng, chúng ta rất là khó có thể chấp nhận được ở trong cuộc sống này:

1 - Thứ nhất, mỗi chúng ta sống đều có một kỳ vọng là cuộc đời phải đi theo cách này hay đi theo cách kia và, nếu chúng ta để ý thật nhiều, thật rõ thì, đa phần đòi hỏi của chúng ta đi ngược lại với tự nhiên. Ví dụ, mình đòi hỏi cái đó luôn luôn là như vậy, nhưng mà rồi nó thay đổi, chúng ta khổ. Mình đòi hỏi trời phải trời quang, mây tạnh, mát mẻ, đẹp đẽ, nhưng trời mưa bão, chúng ta khổ. Chúng ta nghĩ mình đi ra ngoài mọi người phải tử tế với chúng ta, nhưng người ta không tử tế, mình khổ. 

Cuộc sống của mỗi người luôn sống kỳ vọng. Nhưng mà, Minh Triết của đời sống, sự sáng suốt thật sự là, Đức Phật dạy nếu nó vô thường chấp nó vô thường, nó rỗng không mình biết nó rỗng không, nó vô ngã biết nó vô ngã, đó là Minh Triết của cuộc sống. 

Trong kinh Đức Phật dạy, một vị tỳ kheo sống ở chùa, thấy người ta quét lá đổ xuống hố sâu hay đem đốt đi không phiền, tại vì chưa bao giờ có một mảy may ý nghĩ lá rụng, lá héo, lá úa, rơi ở sân chùa là của riêng mình, nên hốt đem đốt thì không sao. Chúng ta bị khổ khi chúng ta nghĩ ngược lại với tự nhiên. Khi chúng ta nghĩ thuận với tự nhiên, chấp nhận tự nhiên, sống thoải mái tự nhiên, chúng ta sẽ không khổ.

2. Thứ Hai. Chúng tôi trở lại với một ví dụ quen thuộc, một người không quen thuộc với sóng biển, khi họ xuống nước họ rất sợ hãi và khi sợ hãi thường họ chống trọi lại, họ vùng vẫy, nhưng một người có một sự quen thuộc với sóng biển, thì với họ sóng biển lên xuống nó chỉ là một điều tự nhiên, biển thì có sóng và nước dâng lên thì mình lên, nước xuống thì mình xuống và, cái lên cái xuống tự nhiên đó làm cho người ta cảm thấy nhẹ nhàng. 

Có một lần, một gia đình Phật tử chở chúng tôi đi từ San Francisco đến ngôi chùa Vạn Phật Thánh Thành của HT Tuyên Hóa, trên đường đi họ ghé vào bãi biển qua khỏi Golden Gate một chút, để chúng tôi có thể quan sát những người trượt sóng, đó là một môn thể thao bắt nguồn từ Hawaiian, môn thể thao này người ta dùng một miếng ván để dưới chân, họ đứng trên miếng ván đó nương theo sóng và không bị nhận chìm bởi sóng, cái lướt sóng này thật sự một cảnh giới mục kích tại chỗ rất đẹp, đó là môn thể thao rất đẹp nhưng nó đòi hỏi sự khéo léo. Đó là một buổi sáng miền bắc California, trời rất lạnh, tại nơi đó là có nhiều ghềnh tháp, một người bình thường, ngay cả một người thích tắm biển nữa cũng không có gì thích thú để xuống bơi.  Nhưng, lát sau, có mười mấy người bắt đầu lướt sóng xuất hiện ngoài xa, những cơn sóng lớn đẩy họ vào trong bờ, nhìn họ lướt nhẹ tạo ra những hình ảnh rất ngoạn mục, sóng càng to thì họ lướt càng đẹp. Lúc đó mình mới thấy một điều, những lượn sóng đó giống như những đổi thay trong cuộc đời này. 

Chúng ta có một nhân sinh quan là, chúng ta sống bằng kỳ vọng, nói thẳng là chúng ta sống bằng sự đòi hỏi, nó phải thế này nó nên như thế kia, nhưng, những kỳ vọng của chúng ta nếu nó đi ngược lại tự nhiên thì chúng ta khổ, chắc chắn như vậy. Chúng ta thường không có được sự thanh thản. Nhưng với một người niệm hơi thở, chúng ta không đòi hỏi hơi thở, không tô hồng chuốc lục, không nhồi nặn hơi thở phải thế này hơi thở phải thế kia, mà người đó có khả năng hơi thở như thế nào nhận ra như vậy, sự thay đổi như thế nào chấp nhận như vậy, sự sanh diệt như thế nào chấp nhận như vậy, chúng ta gọi đó là sự Minh Triết của đời sống.

Chữ Minh Triết ở đây chúng tôi muốn dịch sang tiếng Anh là chữ Wisdom. Nhưng, ở đây dịch là Minh Giải Thoát là khả năng sống với thực tại, không phải sống bình thường, không phải sống một cách miễn cưỡng, không phải sống một cách chịu đựng, mà là sống một cách thoải mái, một cách an nhiên, tự tại. Tại vì dựa trên nền tảng nó như vậy thì phải như vậy. 

Thí dụ như, chúng tôi làm trụ trì một ngôi chùa, mà nghĩ rằng mình làm trụ trì ở trong chùa có chuyện phiền hà rắc rối thì mình sẽ không làm trụ trì nữa, mình cảm thấy chán nản buồn bã. Hoặc giả, tại sao tôi làm trụ trì bị cảnh đó. Nhưng ở trên thực tế nó là như vậy, một ngôi chùa, một tổ chức, một cộng đồng luôn luôn có những chuyện phiền hà, thì vai trò trụ trì này là để mình có thể giải quyết những chuyện phiền toái đó, không có chuyện phiền toái đâu cần vai trò trụ trì làm gì. Thì mình hiểu như vậy, cảm thấy tự nhiên, nó vốn là như vậy, nó không thể khác hơn được và, khi mình nhận ra nó như vậy là như vậy thì ở đó có sự an lạc, sự an lạc dựa trên sự hiểu biết chứ không phải sự an lạc do hi vọng của mình được đáp ứng, hay sự kỳ vọng của mình được theo ý của mình, cái gì mình nghĩ mình đòi hỏi mà được như ý thì mình mới hạnh phúc, hai cái đó rất khác biệt.

Tại Thiền viện  Wat Nong Pah Pong của Ngài Ajahn Chah, ở phía trước  để một bảng tiếng Anh và tiếng Thái, bảng đó để gần dưới đất ngang tầm mắt của mình, Ngài nói rằng: "Điều quan trọng không phải là mình phải suy nghĩ những ý tưởng thông thái, hay là mình phải có tâm giống bậc Thánh. Mà điều quan trọng là cuộc sống như thế nào chấp nhận như vậy". Chúng ta thường mong mỏi mình phải thế này phải thế kia. Cái vấn đề khó khăn của chúng ta là cái đó vô thường mình nhận nó là vô thường, cái đó rỗng không thì chấp nhận nó rỗng không, nó bất toàn nhận nó bất toàn, nó vô ngã mình chấp nhận nó vô ngã. Nói như vậy chứ thật sự không đơn giản. Sự thật nó như vậy là như vậy, mình có an lạc với điều đó hay không.

Ngài Xá Lợi Phất có một người em xuất gia, vị này cũng là A La Hán, khi vị này đang ở trong một hang động bị một con rắn độc cắn, khi Ngài bị rắn cắn Ngài nói với các vị Tỳ Kheo: 

- Này các vị hiền giả, hãy khiên tôi ra ngoài trời, tôi đã bị con rắn độc cắn.

Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất có mặt ở tại đó, Ngài Xá Lợi Phất hỏi là 

- Hiền giả có điều gì hối tiếc hay không?

Thì em Ngài Xá Lợi Phất trả lời rằng:

- Dạ không, bởi vì không có sự chấp thủ là sắc thọ tưởng hành thức, cái gì là ta, của ta, v.v... 

Ngài Xá Lợi Phất nói lời tán thán.

Câu chuyện rất đơn giản, một người bị rắn cắn. Nhưng nếu mình xét lại, mình đọc lại kỹ câu chuyện, mình thấy cung cách của hai vị không bình thường, tức là, Ngài Xá Lợi Phất là bào huynh, vị kia là bào đệ, vị bào đệ bị rắn cắn, và hai vị nói chuyện với nhau như chuyện chúng ta nói về một cái ly bị bể giờ đem dẹp cái ly đi, sau đó thì vị A La Hán đó viên tịch. 

Câu chuyện đó chúng ta phải đọc rất nhiều lần mới nhận được một sự bình thản của chính người bị rắn cắn và của Ngài Xá Lợi Phất ở trong câu chuyện như vậy.

Khả năng đó nằm ở trong một thể hiện của cao điểm, chúng ta gọi là Minh Giải Thoát, nhờ vào sự tu tập đối với hơi thở, hễ hơi thở như thế nào thì nhận nó như vậy.

Kết Luận

 Khi chúng tôi ở với Ngài Tangpulu Sayadaw là vị Thầy truyền giới cho chúng tôi, Ngài có cho một ví dụ mà chúng tôi nghĩ rất lợi lạc, chúng tôi muốn nhắc lại ở tại đây như một câu kết luận cho bài học về Nhập Tức, Xuất Tức Niệm.

Ngài nói rằng, có một sự liên hệ giữa chúng ta đối với hơi thở và đối với những người thân chung quanh mình. Một người niệm hơi thở, người đó nghĩ rằng phải có lợi gì mình mới niệm hơi thở thì, giống như trường hợp một người giao thiệp với ai, quen biết với ai, luôn nghĩ là mình phải có cái lợi gì ở người đó mình mới chơi với người đó, mà mình cảm thấy không có lợi thì mình làm ngơ không có thái độ thân thiện. 

Và Ngài cũng nói một điều rằng, một người có thể nhìn vào hơi thở một cách tự nhiên thì người đó sẽ có một thái độ đối xử một cách tự nhiên với những người bạn của mình, người ta ra sao thì mình chấp nhận như vậy, chứ không phải mình thân với một người nào đó tại vì người đó làm cái gì vừa lòng mình, hay người đó phải giống như mình, hay người đó phải thế này thế kia, mà người đó ra sao mình thương như vậy, đó là thái độ giống như hơi thở. Chúng ta không đòi hỏi hơi thở phải dài, hơi thở phải ngắn, hơi thở phải thế này thế kia, và Ngài nói rằng thái độ điểm đạm, thái độ rất an nhiên, thái độ không có nhồi nặn, không có đòi hỏi của chúng ta đối với hơi thở, cũng là một thái độ ung dung của chúng ta trong cuộc sống này.

Câu nói đó của Ngài, Ngài chỉ nói về xử thế thôi và liên quan đến hơi thở, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu thêm:

-  Nếu một người niệm hơi thở lâu thì người đó có được nhiều lợi lạc, những lợi lạc là vị đó sẽ tăng trưởng khả năng bám sát với thực tế, chúng ta gọi là Niệm Giác Chi, 

- Vị đó có khả năng tinh tế hơn đối với thực tế gọi là, Trạch Pháp Giác Chi. 

- Vị đó có khả năng dứt khoát hơn với thực tế gọi là, Cần Giác Chi.

- Vị đó có khả năng sống thoải mái hơn với thực tế gọi là, Hỉ Giác Chi

- Vị đó có khả năng sống ít bị lôi kéo gọi là, Khinh An Giác Chi.

- Vị đó có khả năng sống bền bỉ với thực tại hơn gọi là, Định Giác Chi.

- Vị đó sống với khả năng an nhiên hơi với thực tại gọi là, Xả Giác Chi.

-  Nhưng trên hết, sau hết là, sự thật như thế nào, chấp nhận như vậy, không đòi hỏi quá hơn, không đòi hỏi ít hơn và, không đòi hỏi ngược lại với thực tại thì gọi là, Minh Giải Thoát.

Đó là vài điều, chúng tôi chia sẽ trong phần Nhập Tức Xuất Tức Niệm, bài kinh được Đức Phật giảng về hơi thở ra hơi thở vào. 

Và chúng tôi xin thưa rằng những điều này, chúng ta không thể nói qua lý thuyết mà nó là kinh nghiệm của mỗi chúng ta khi thực hành mới cảm nhận được. Cũng giống như mình diễn tả thành phố Vancouver của Canada là một thành phố đẹp, mình tả hết vẻ đẹp thì người ta nghe cũng chỉ biết thành phố đó đẹp, nhưng, họ không thể cảm nhận cái đẹp đó như thế nào được. 

Khi Đức Phật dạy chúng ta những điều này thì Ngài dạy chúng ta bằng những ngôn ngữ rất cô động và chính xác, Ngài có thể nói được, nhưng mỗi chúng ta phải thực hành mới có thể cảm nhận được điều này ở trong một cái ý nghĩa chân xác nhất có thể tìm được lợi lạc từ lời dạy của Đức Phật ./.