Sunday, March 29, 2020

Bốn sự cúng dường thanh tịnh - TT Giác Đẳng giảng

Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
33. Kinh Phúng tụng (Sangìti sutta)
PHÁP BỐN CHI 4.37

xxxix) Bốn sự cúng dường thanh tịnh


Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma  ngày 6 tháng 4, năm 2019
Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Trước khi đi vào ý nghĩa bài kinh ngày hôm nay, chúng tôi muốn nói một điều về cúng kiếng là một hình thức rất phổ cập ở trong các tôn giáo, người ta có nhiều chữ để nói về cúng kiếng như, cúng dường, hay là cúng kiếng, hay là phụng hiến. Người thờ thần lửa, họ có cách cúng tế thần lửa, người thờ Thượng Đế có cách để vinh danh ca ngợi Thượng Đế. Tất cả những sự cúng kiếng đó đều mang hình thức làm sao để cuộc sống của chúng ta có thực hành gì đó để thể hiện lòng tôn kính và, từ lòng tôn kính đặc biệt đó chúng ta thể hiện bằng cách cúng một cái gì.

Trong kinh Pháp Cú có câu: 

Quanh năm bố thí cúng dường,
Không bằng một phút kính nhường thánh nhân.

Cúng tế người đời thường làm đôi khi gọi là bái vật, tức là thờ phượng một ngẫu tượng, thờ phượng một cái gì đó mang tánh cách niềm tin tín ngưỡng nhân gian.

Sự cúng dường mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân của mình đó là sự cúng dường các bậc có giới đức. Có thể là, một sự đảnh lễ, hoặc giả là, cơm, bánh, hay những thứ khác. Mới nghe thì rất đơn giản, nhưng mà, ở đó nó lại mang một yếu tính làm tâm của chúng ta được trong sạch. 

Ngày xưa, khi chúng tôi mới vào chùa Phật Giáo Nam Tông, những người Phật tử khi phát tâm cúng dường thì họ không nói "phát tâm cúng dường" mà thường hay dùng chữ "phát tâm trong sạch". Phát tâm trong sạch với một buổi lễ, hay phát tâm trong sạch với vị sư nào đó. Chữ "phát tâm trong sạch" là cách nói theo người Miên, người Thái, người Miến Điện. Nghĩa là, trong đời sống bình thường của chúng ta chỉ biết thu góp, chỉ biết bám víu vào những vật sở hữu của mình, nhưng một khi mình cho ra thì lúc đó tâm mình rất trong sạch. Tại vì khi cúng dường như vậy mình không mong cầu cái gì đó lợi cho mình, mà mình chỉ mong là, hi hiến, hoan hỉ rồi mình cúng dường.

Bố thí là, một cách xả tài, cách giảm thiểu xan tham. Nhưng, cúng dường thì đạt đến một cao điểm nữa ở trong đó có sự cung kính.

 Chữ cúng dường có khi chúng ta đọc cung dưỡng là đọc theo chữ nghĩa ngoài đời.
Đọc cúng dường theo chữ nghĩa của nhà chùa. Cúng dường là một hình thức hiến tặng bằng tâm cung kính
Trong kinh Phật là chữ dakkhiṇā dàna. Có bốn chữ thường được đề cập trong kinh là:
 
 Āhuneyyo là xứng đáng được tôn trọng,

 Pāhuneyyo là xứng đáng được thương mến, xứng đáng được tôn trọng và  thân thiện

Dakkhineyyo xứng đáng được cúng dường để tạo phước.

Añjalikaranīyo: đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.

Chữ dakkhineyyo, đặc biệt chỉ cho hình thức cúng dường qua đó có ý nghĩa để tạo phước lành, lấy một thí dụ là, qúi vị Phật tử có tiền đến chùa cúng cho vị trụ trì để nhờ vị trụ trì làm việc gì đó thì không mang tính dakkhiṇā dàna. Nhưng, nếu qúi vị nghĩ rằng lâu quá không làm phước bây giờ làm phước đến Chư Tăng thì gọi là dakkhiṇā dàna, hay là, mình thấy một vị Sư bệnh mình cúng dường thuốc mặc dầu vị Sư đó không phải bà con quyến thuộc của mình, sự cúng dường này cũng gọi là dakkhiṇā dàna.

Thì ở đây, một khái niệm rất quan trọng ở trong nền văn hóa Ấn Độ và, cũng quan trọng ở trong nền văn hoá Phật Giáo đó là, chúng ta nói đến sự trong sạch hay, nói đến chữ Araham là Ứng Cúng.

 Ứng Cúng là bậc đáng cúng dường. Chữ bậc đáng cúng dường có hai ý nghĩa:

1. Một là, cúng dường vị đó tạo nhiều phước báu,

2. ý nghĩa thứ hai. bởi vì đối tượng cúng dường là đối tượng rất thanh tịnh nên được nhiều phước báu. 

Đức Phật gọi là bậc Ứng Cúng có nghĩa Ngài là đấng trọn lành, Ngài là đấng hoàn toàn thanh tịnh, ngay cả tiền khiên tật cũng không còn, và do sự thanh tịnh như vậy nên ai cúng dường bậc thanh tịnh thì phước báu vô cùng.

Lấy một ví dụ, bình thường trong đời sống, nếu chúng ta gieo hạt giống ở trên một miếng đất khô cằn thì nó không dễ dàng để đâm trồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái, nhưng, nếu chúng ta trồng trên miếng đất màu mỡ thì thấy khác biệt rõ ràng. Chúng tôi là người lớn lên ở miền quê, chúng tôi biết khi đất có phù sa thì hạt giống trổ rất là nhanh, mà đất khô cằn thì mình trồng cái gì cũng còi. Do vậy một bậc trọn lành như Đức Phật hay chư vị Alahan hoàn toàn thanh tịnh mình cúng dường mình được rất nhiều phước. 

Chúng tôi trích dẫn cả hai bài kinh, một bài kinh trong Kinh Phúng tụng (33.Sangìti sutta), một bài khác do Đức Phật dạy ở trong Tăng Chi Bộ kinh, Phẩm Bốn Pháp.

Ở đây, bài học hôm nay là, bốn  ý niệm về thanh tịnh, bốn trạng thái cúng dường thanh tịnh, bốn câu chuyện nói về sự thanh tịnh ở trong bố thí.

Bốn bố thí được định nghĩa như sau: 
1 - Sự bố thí được thanh tịnh là nhở ở người nhận,
2 - Bố thí được thanh tịnh nhờ ở người cho,
3 - Bố thí được thanh tịnh là do cả hai,
4 - Bố thí cả hai người nhận và người cho đều không thanh tịnh.

Thì ở đây, trong điều này Đức Phật dạy, hành động bố thí có thể tạo ra phước thù thắng do nằm trong ba trường hợp, còn trường hợp thứ tư là trường hợp bình thường không thù thắng. 

Người Phật tử trong đời sống hàng ngày của mình làm phước, mình biết đối tượng bố thí là quan trọng, nhưng, quan trọng là tâm của mình, tâm thí của mình có được trong sạch hay không mới là quan trọng. Ở đây, chữ dakkhiṇādàna không dùng để áp dụng cho cách bố thí thông thường, như khi qúi Phật tử bố thí chuẩn bần cho người nghèo thì không gọi là dakkhiṇādàna.  Bố thí gọi dakkhiṇādàna là khi nào bố thí mình nghĩ đến chuyện làm phước.

Sự thanh tịnh từ người cho có nhiều ý nghĩa về sự thanh tịnh, một là vật thí phát sanh hợp đạo, ví dụ, tiền bạc mình cúng dường không phải là do trộm cắp, do sát sanh, hay, do những chuyện làm phi pháp mà nó đến từ phát sanh hợp đạo và tâm cúng dường được thanh tịnh, đây là một điểm rất là quan trọng. Ở các quốc gia Phật giáo khi làm phước thì người cúng dường thường là người phải hiểu được tác ý thanh tịnh của mình. Đặc biệt trong các lễ trai tăng những người thí chủ thường xin thọ tam qui ngũ giới trước khi làm lễ trai tăng.

Tại các quốc gia Phật Giáo, đặc biệt trong ngày Bát Quan Trai Giới, người Phật tử khi thọ trì Bát Quan Trại Giới, ngày đó họ làm phước cúng dường đến Chư Tăng và, làm phước cho đại chúng, họ tin rằng trong những ngày trai giới thân tâm thanh tịnh trong sạch là dịp rất tốt để bố thí.

Trong từ vựng của bài học có chữ duṭṭha sila được dịch là ác giới.

Thật ra, chữ duṭṭha sila có nghĩa là, không có giới hay là, giới không được tốt đẹp. 

Ví dụ, một người làm phước, người đó giữ năm giới trong sạch thì có phước hơn người làm phước không giữ năm giới trong sạch. Chữ duṭṭha sila ở đây có nghĩa là "không có giới".

Sự trong sạch từ người cho đến từ sự tác ý trong sạch và, điều này Chư Tăng thường hay nhắc quí Phật tử đi chùa làm phước. Đôi khi mình làm phước nào đó là do người ta thấy mình có tiền, người ta đến nói khích, thí dụ, "anh chị làm bác sĩ, nhà giàu, cúng nhiều đi chứ sao mà cúng ít vậy", nghe người ta nói vậy mình ngại mình cúng nhiều. Điều đó không tốt, mình làm phước không do sự miễn cưỡng. Khi làm phước mình có ý thức càng rộng thì phước càng nhiều, ví dụ, làm phước không phải là vì mình thân thích với chư tăng ở chùa, mình làm phước không phải vì mình muốn nổi tiếng, muốn danh muốn lợi, mình làm phước chỉ đơn thuần làm phước thôi. Tâm thí rất quan trọng, tâm càng thanh tịnh thì càng được nhiều phước.

Điểm thứ hai, sự thanh tịnh đến từ người thọ thí tức là, Chư Tăng. Căn bản mà nói, nếu qúi vị cúng dường đến Chư Tăng, vị đó đang tu tập, vị đó đang nhập hạ hay là, ở trong khóa tu, hoặc giả là, vị đó ở xa đến, hoặc sắp đi xa, hoặc giả vị Tỳ Kheo bịnh, chúng ta gọi là "bố thí đúng thời", bố thí cho một vị pháp sư đi hoằng dương Phật Pháp thì những bố thí đó tạo ra phước thù thắng từ người nhận.

Thời Đức Phật còn tại thế, có một vị Tôn giả Subuti (Tu-bồ-đề), Ngài đặc biệt có lòng lân mẫn đối với các vị thí chủ. Khi Ngài đi khất thực Ngài thường nhập thiền xuất thiền. Một vị tu tập mới xuất thiền, người cúng dường được nhiều phước, tại vì vị đó đang đạt đến tâm giải thoát rất cao.
 
Đời sống bình thường cũng vậy, Chư Tăng muốn cho người Phật tử được phước thì khi nhận thực phẩm hay tứ sự cúng dường Chư Tăng quán tưởng thanh tịnh giới. thí dụ về thực phẩm, Chư Tăng quán tưởng rằng mình thọ thực không phải vì làm đẹp, không phải vì muốn tráng kiện thân thể, không phải để vui đùa. Mà mình thọ thực để duy trì mạng căn, sống đời sống tu tập để làm tan biến cái khổ đã sanh và, ngăn ngừa cái khổ chưa sanh. Một vị tỳ kheo trong lúc nhận thực phẩm từ người Phật tử mà quán tưởng thì lúc đó vị đó trở thành một đối tượng thanh tịnh và tạo ra nhiều phước báu cho người cúng dường. 

Về trường hợp này, chúng ta nói rằng một sự bố thí được tốt đẹp được thanh tịnh từ người nhận là, người nhận có tu, người nhận có sự thanh tịnh.

Trong trường hợp được cả hai cùng thanh tịnh thì rất tốt. Do cả hai là, người bố thí và người thọ thí đều làm với tâm trong sạch. Về trường hợp này xảy ra rất thường ở những đạo tràng tu tập, chúng ta tìm thấy những vị thí chủ là những người phát tâm rất trong sạch và những người nhận thí là những người tu tập có tâm thanh tịnh trong sạch. 

Tại các quốc gia Phật Giáo như, Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, họ vẫn còn giữ được một cách tổ chức rất quí đó là, các thiền viện khi mình đến xin ở lại tu tập thì họ không lấy tiền, mình chỉ vào đó tu tập, còn chuyện chỗ ở, cơm ăn, đều do có người cúng dường. Bởi vì ở những nơi này những người Phật tử tin rằng nếu người ta tu tập mà mình hộ trì cho người ta tu thì mình được phước, tâm mình trong sạch và người thọ thí cũng trong sạch như vậy gọi là "thắng phước".

 Ở các xứ Âu Mỹ, các thiền viện tổ chức rất chặc chẽ, do vậy khi vào trong  thiền viện tham dự các khóa tu thiền sinh phải đóng tiền. Thì điều đó cũng có cái hay về mặt tổ chức nhưng, lại có cái dở đó là, đánh mất cơ hội quí báu rất đẹp, tại vì một đại chúng, một hội chúng đang tu tập nếu những vị thí chủ cúng dường thì có rất nhiều phước. Do vậy, tại các quốc gia Phật Giáo như Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan ngày hôm nay hầu hết những thiền viện không thu tiền học phí.

Trong khi mình vào tu tập, nếu có ý thức một chút thì hiểu rằng, điện nước, chỗ ở, thực phẩm, mình có được là do đàn tín cũng dường, thì trong lúc tu tập mình hồi hướng công đức cho những vị thí chủ đó. Điều này, thật sự có đạo vị.

Cũng có trường hợp người bố thí và người thọ thí đều không ở trong điều kiện tốt đẹp. Trường hợp này cũng có phước nhưng phước này rất hạn chế.

Ví dụ, A Xà Thế lúc còn là vị hoàng tử vì nể phục thần thông của Tỳ kheo Đề Bà Đạt Đa đã cúng dường rất nhiều lễ phẩm, một ngày như vậy nhiều chiếc xe chở những vật cúng dường đến cho Đề Bà Đạt Đa

A Xà Thế nghĩ rằng Đề Bà Đạt Đa là một nhà tu nhưng có đầu óc kinh ban tế thế, chỉ dạy cho mình cách nào để lên ngôi, để đoạt ngai vàng, tức là đã đi bắt giết vua Bình Xa Vương, người cha ruột của mình. 

Còn Đề Bà Đạt Đa lúc bấy giờ đã không còn tu tập nữa, thiền đã hoại, không còn thần thông nữa, nhưng vẫn còn có nhiều kế sách để bày vẽ cho A Xà Thế

Có một lần Đức Phật Ngài nhìn thấy những chiếc xe ngựa, ở trong kinh ghi là 500 chiếc xe ngựa, thật ra rất là nhiều xe ngựa chở những thực phẩm đến để cúng cho Đề Bà Đạt Đa. 

Đức Phật Ngài dạy các vị Tỳ Kheo rằng,"giống như cây tre hay cây chuối ra buồng ra nải thì sẽ làm chết cây tre cây chuối, một vị Samon sống nặng về danh, về lợi, thì những vật cúng dường đó sẽ làm cho vị này mất đi mục đích chính của đời sống phạm hạnh" và, quả thật không lâu sau đó thì Đề Bà Đạt Đa đã rơi vào con đường danh lợi và, con đường đó dẫn đến nhiều hành động rất sai quấy bởi vì hai chữ danh và lợi.

Nếu một người Phật tử mang cơm đến chùa cho Chư Tăng, lúc Chư Tăng thọ thực với tâm sanh đắm nhiễm thì phước không có nhiều cho vị thí chủ như vị Tỳ Kheo quán tưởng trước khi ăn, điều đó được ghi dạy rất rõ ràng ở trong kinh điển.

Thì ở đây, Đức Phật Ngài dạy về sự cúng dường, cúng dường ở đây trong Phật Pháp gọi là dakkhiṇā dàna, là một phước thí vị thí chủ làm để tạo phước, thì khi một phước sự dakkhiṇā dàna được diễn ra thì yếu tố của người cúng dường đó là tâm thí và, yếu tố của người nhận gọi là người thọ thí nó đều có một ảnh hưởng. 

Ví dụ:
- Chúng ta vốn thường bố thí vì danh, vì lợi, vì có hậu ý này, hậu ý kia, thì nó khác. 

- Chúng ta bố thí cúng dường với tâm trong sạch vì, qúi và kính một người tu tập mà mình cúng dường thì việc đó là việc khác và, đặc biệt là, người cư sĩ khi muốn cúng dường phải quán xét là vật cúng dường của mình phát sanh có hợp đạo không. 

Trong Trung Bộ Kinh, kinh Jìvaka, Đức Phật Ngài dạy là, "một người sát sanh giết con này con kia để cúng dường người tu tập thì, người đó tạo ra nhiều điều bất hạnh cho bản thân, bất hạnh cho con vật đó" và, việc đó sẽ khiếm khuyết cho phước sự của người bố thí rất lớn khi vị này sát sanh rồi đem bố thí. 

Vì vậy, trong những bài kinh tác bạch để cúng dường có câu là "những vật cúng dường phát sanh hợp theo lẽ đạo". 

Một vị thí chủ cúng dường cũng lên hiểu làm thế nào để tâm mình được thọ hỉ, được hợp trí, được hoan hỉ, tạo nhiều phước. 

Thọ hỉ hợp trí có nghĩa là, khi làm phước mình làm bằng tâm hoan hỉ và có sự hiểu biết công việc mình làm, càng có thọ hỉ càng có hợp trí thì phước nhiều. Với một người cúng dường tâm ý tốt thì được bảo đảm bởi giới hạnh trong sạch, do vậy, tại các quốc gia Phật Giáo khi người cư sĩ làm phước sự lớn thì mở đầu là xin thọ trì tam qui và ngũ giới, luôn luôn là vậy và, vị đó luôn luôn nhắc rằng, trong thời gian đang làm phước thì mình nghiêm trì năm giới trong sạch thì mình tạo nhiều phước. 

Đối với người thọ thí, Đức Phật Ngài khuyên có nhiều trường hợp người thọ thí mang lại phước báu gọi là Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa -  phước điền vô thượng, nếu vị đó mà cao nhất là từ chứng quả A Na Hàm hay Alahan có thiền phi phi tưởng, nhập diệt tưởng thọ định, một vị nhập diệt tưởng định mà xả thiền ra thì người cúng dường được phước báu hiện tiền rất cao. 

Và, một vị Tỳ Kheo có quán tưởng vật thực khi thọ thực cũng tạo nhiều phước đức cho vị thí chủ không hẳn phải là nhập diệt thọ tưởng định. 

Vị Tỳ kheo có tâm từ cho vi thí chủ cũng tạo nhiều phước đức. Tâm từ là, khi thọ thí mong cho người cúng dường được lợi lạc, được lợi ích đó gọi là tâm từ.

Có nhiều người VN thường nghĩ "sau khi mình chết ai lo nhang khói cho mình". Nhưng tại các quốc gia Phật Giáo, những người hiểu đạo họ không cần phải có ai nhang khói cho họ, không sợ phải nhang tàn khói lạnh, mà tự họ làm phước trước, thí dụ họ đào giếng, xây cầu, về sau này họ mất đi, ai xử dụng giếng nước đó hay ai dùng cây cầu đó thì người đào giếng hay xây cầu vẫn còn được phước mặc dầu lúc đó không có ai nhang khói cho họ.

Tại các quốc gia Phật Giáo, trong các trường thiền thì ngoài chuyện xây am thất người ta hay xây con đường kinh hành, con đường kinh hành có chiều dài nhất định và được đắp cao để không bị đọng nước. Thì một vị cư sĩ ở trong làng lúc sắp mất đi nghĩ đến phước đức hậu sự của mình thì vị này cất một am thất và cất con đường kinh hành, ở cuối con đường kinh hành đó họ làm một tấm bia, có khi họ chôn hũ cốt của người thí chủ ở đó, có khi họ để tên và hình vị thí chủ. Khi đến đó tu tập thì mình biết vị thí chủ này đã xây am thất và con đường kinh hành này, vì vậy, khi mình tu tập mình hồi hướng công đức, cái đó là cái gì rất là đẹp.

Đẹp là nói như vầy là, có vài lần chúng tôi có nghe một vị nói rằng mình đi kinh hành buổi tối mà biết là ở cuối con đường kinh hành có chôn hũ cốt cũng sợ ma, mình không tu được. Nhưng kỳ thực không phải vậy, khi những chúng sanh có tâm trong sạch, được sanh làm Chư Thiên hộ trì mình tu tập, mình hoan hỉ và nhờ vậy mình tinh tấn tu tập, mình đi kinh hành thì hồi hướng phước cho vị thí chủ đã làm con đường đó.
Theo căn bản thì, nếu người thọ thí càng ít tham càng ít có đắm nhiễm vị thí chủ càng có nhiều phước, ví dụ, một vị thí chủ mang thực phẩm hay y phục đến cúng dường Chư Tăng, Chư Tăng thọ thực bằng tâm tham thì phước cho vị thí chủ không có nhiều bằng tâm có quán tưởng, tâm có tu tập. Về điểm này, trong kinh gọi là sự thanh tịnh đến từ người nhận hoặc là cả hai, có khi người cho, có khi người nhận, hoặc là cả hai, người cho và người nhận.

 Cũng có trường hợp cả hai đều không thanh tịnh, một vị thí chủ không ý thức rõ việc làm phước thì mình làm phước là làm phước thôi, ví dụ, có nhiều vị viết check gửi đến chùa kèm theo danh sách nhờ Chư Tăng cầu an, đó cũng là hành động bố thí, nhưng mà, làm không có tích cực. Tích cực là mình làm cái gì đó mình gói ghém được tâm tư, gọi là làm có hồn. Có hồn ở đây là, có một sự phát tâm mạnh mẽ, có ý nghĩa, có đạo vị, chúng ta gọi là có hồn hơn là mình làm cái gì chỉ làm cho có làm, làm để trả nợ qủi thần,

 Cũng nên hiểu một điểm như vầy là, đôi lúc mình ảnh hưởng văn hóa của người Trung Hoa, mình nghĩ rằng đốt nhang nhiều là có phước, không phải như vậy, hay là, mình tin rằng mình tạo phước bằng cách mình cạo đầu để cúng cầu xin cái gì đó, nhưng thật ra cạo đầu không có tạo phước gì mà đó chỉ là hình thức thôi. Hình thức quan trọng để tạo phước của chúng ta là mình làm cái gì đó cho người khác. Tại các quốc gia Phật Giáo mấy em nhỏ khi sắp đi thi các em làm phước là để bát cho Chư Tăng, hay là vào chùa vài ngày tu bát quan trai giới, tu thiền, điều đó mới thật sự làm phước, còn mình nói mình cạo đầu hoặc giả mình đốt năm bảy bó nhang, đó không phải là làm phước, đó chỉ là một hình thức thôi, chúng ta là người Phật tử nên lưu tâm về điểm này.

Ở đây nói rõ rằng làm phước cách nào có phước, mình cho một con vật ăn cũng có phước, mình cho con chó, con mèo ăn, thì cũng có phước huống chi là con người. 

Khi tâm càng thanh tịnh, thanh tịnh người cho thanh tịnh người nhận, hoặc cả hai thì phước càng thù thắng. Do vậy chúng ta nên hiểu mình làm phước mình làm cách nào để được phước nhiều và làm cách nào không được phước nhiều. Giống như nấu ăn thì không phải ai nấu cũng giống nhau, có người nấu ăn ngon có người nấu ăn không ngon. Hay buôn bán, có người buôn bán có lời, có người buôn bán không có lời. Thì làm phước, có người làm phước được nhiều phước, có người làm được phước ít, mình nên biết như vậy./.

Thursday, March 5, 2020

Bốn hệ phược - TT Giác Đẳng giảng

Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
33. Kinh Phúng tụng (Sangìti sutta)
PHÁP BỐN CHI 4.32

xxxiv) Bốn hệ phược


xxxiv) Bốn hệ phược: Tham thân hệ, sân thân hệ, giới cấm thủ thân hệ, thử thực chấp thân hệ (cattāro ganthā — abhijjhā kāyagantho, byāpādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāyagantho, idaṃsaccābhiniveso kāyagantho).

Hệ phược -gandha- là sự trói buộc hay đóng khung của bản thân khiến cái nhìn và cuộc sống trở nên phiến diện, hạn hẹp.

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma  ngày 1 tháng 4, năm 2019
Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Một đặc điểm của Phật Pháp đó là, qua những gì kinh sách  nhấn mạnh thì chúng ta có một cơ hội lớn để nhìn nhiều vấn đề của đời sống do chính ở thân tâm của mình. Nói một cách khác, Phật Pháp giúp chúng ta đi tìm căn nguyên của đau khổ đến từ những phiền não nội tại hơn là, đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho xã hội, cho ngoại giới.
 
Bài học ngày hôm nay là một ví dụ rất đặc biệt, con người của chúng ta sống ở trong thế giới hạn hẹp tù túng bị trói buộc, đôi lúc, chúng ta được nghe nói đến chữ tự do, hay là, khao khát tự do, chúng ta thường nghĩ rằng, tự do là cái gì đó được nhìn nhận, được ban bố bởi xã hội, bởi một chính thể cầm quyền. 

Nói nhiều về điều này, nhấn mạnh về điều này, khiến chúng ta thường quên hẳn đi rằng, sự tự do không phải là một tặng vật xã hội cho chúng ta, hay là, nhà cầm quyền cho phép chúng ta. Nếu chúng ta sống ở những quốc gia có luật pháp bảo vệ sự tự do của con người, chúng ta vẫn thấy có vô số trường hợp con người tự đóng khung, tự giam cầm mình, trong một thế giới nhỏ bé, nhỏ bé đến đỗi chúng ta khó có thể tưởng tượng được, làm sao có thể sống ở trong thế giới chật hẹp như vậy.

Tham thân hệ

Chúng tôi nhớ có lần được xem một bức hình ở VN, cũng lâu rồi, không biết bây giờ còn không, tấm hình chụp một người dùng một chiếc xe gắn máy chở một con heo lớn, để con heo đó không có vùng vẫy người ta dùng những sợi giây chì, loại giây kim loại, cột nó lại giống như cái rọ khiến cho con heo không nhúc nhích được, và họ chở phía sau xe gắng máy. Nhìn cách người ta cột thì chúng ta có thể liên tưởng đến chữ "phược".  Người ta cột không phải chỉ  trói chân hay cột thường mà họ cột như một cái lồng bó sát thân con heo, và con vật hoàn toàn không nhúc nhích gì được, đúng là vô kế khả thi. 
Nhìn một con vật bị cột trói như vậy, chúng ta có thể liên tưởng đến một hình ảnh Đức Phật Ngài dạy chữ "thân phược". Thân phược là, cột trói bản thân của mình. Sự cột trói này siết chặt bởi sợ giây vô hình, thường, chúng ta là người trong cuộc, chúng ta tự nghiệt ngã, tự cột trói chính mình, nhưng, chúng ta lại không hay biết về điều đó. Chỉ khi nào chúng ta bừng tỉnh, hoặc giả, chuyện đã qua lâu rồi bây giờ mình mới nhìn lại và thấy lúc đó quả thật là một chuỗi ngày đau khổ mà chúng ta đã không biết.

Trong truyện Kiều, có rất nhiều trường hợp cụ Nguyễn Du đã viết lên tâm sự của Thúy Kiều ở vị thế bất hạnh, bất hạnh đến đỗi Thúy Kiều có cảm tưởng cuộc sống bị cột trói, vừa tháo ra lại bị cột lại, cụ viết câu: "Chém cha cái số hoa đào, gỡ ra, rồi lại cột vào như chơi". Đó là thân phận của nàng Kiều, thân phận của một người con gái trên bước đường lưu lạc, nhiều lúc tưởng mình sắp được tự do, nhưng sự đưa đẩy của hoàn cảnh lại khiến cho mình đánh mất đi chính mình và, mình nằm ở trong vòng cương tỏa, sự kềm kẹp, sự cột trói của người khác. 

Chúng ta nói về nàng Kiều là vậy, nhưng, quả thực qua cái nhìn của Phật học, đời sống của chúng ta có những thứ cột trói ở những hoàn cảnh nghiệt ngã và, nó không phải đến từ người khác mà đến từ bản thân của mình. Điều này, khi chúng ta tu tập, chúng ta sẽ thấy rất rõ, mình quá thích cái gì đó thì, mới xem đó là một điều hạnh phúc, mình quá thích cái gì đó, mới xem đó là một ý lực rất mạnh mẽ. Nhưng, trong một cái nhìn khác thì, mình quá thích cái gì đó thì đó là, sự cột vào.

TT Tuệ Siêu, trong phần dẫn nhập có nhắc đến hình ảnh Trương Chi và Mỵ Nương. Mỵ Nương, một người sống trong lồng son khuê các, chợt nghe tiếng sáo của Trương Chi. 

Chúng tôi không biết tâm sự của một tiểu thư đài các khi nghe tiếng sáo như thế nào. Nhưng, chúng tôi đã từng nghe, không phải một chuyện mà nhiều chuyện, đó là, ngày xưa ở vùng miền quê  nước ta ít khi có văn nghệ, lâu lâu có đoàn hát văn nghệ về trình diễn, ở trong đoàn hát có những vai chánh như  đào thương, như kép độc, hay kép mùi. Thì những vị đào kép đó, đặc biệt là, những kép tức là những nghệ sĩ nam có sức thu hút rất mạnh, mạnh đến đỗi sau một tuồng hát, có những cô gái ở trong làng vốn sống cuộc sống bình dị, vì thương quá thương nên bỏ cha bỏ mẹ đi theo những anh kép hát này sống cuộc đời lang bạt kỳ hồ, trong tình yêu của một người con gái mới lớn, đặc biệt là mê ca hát, mê kép hát thì gần như bỏ tất cả tương lai của mình. Những trường hợp đó chúng ta nghe bây giờ rất nhiều.

 Thì Mỵ Nương cũng vậy, sống ở trong khuê các, khi nghe được tiếng sáo đem lòng tương tư. Sự tương tư đó làm cho cả bầu trời nhuộm màu, mơ ước được gặp người đã thổi lên tiếng sáo đầy chất mê hoặc đó. Người thổi sáo đó là Trương Chi được đưa đến gặp Mỵ Nương và, lúc bấy giờ Trương Chi từ một nghệ sĩ sống cuộc sống sông hồ có một đời sống mình là của mình, tự mình thưởng thức tiếng sáo của mình, bây giờ lại đem lòng tương tư Mỵ Nương. 

Câu chuyện TT Tuệ Siêu nhắc về Trương Chi Mỵ Nương là một ví dụ rất dễ dàng để cho chúng ta thấy thế nào là tham chấp thân phược. Khi mình quá thích cái gì, đặc biệt là, chúng ta sống trong một thế giới người ta tạo nên những ảo giác về nhãn hiệu-brand name, thí dụ, có những người yêu thích một món hàng, một sản phẩm của hiệu gì đó, bất cứ cái gì họ sài, bất cứ thứ gì họ xử dụng phải là hiệu đó họ mới thấy sống được hạnh phúc.

 Chúng tôi nhớ nhiều năm về trước, một tờ báo đăng tin, có một bạn trẻ ở Trung quốc thích cái ipad của Apple, không có tiền để mua mà lại quá thích, người này phải bán một bên thận của mình để có tiền mua ipad, bây giờ thì trở thành một phế nhân. Khi mình quá thích cái gì đó thì, cái thích đó nó không còn là niềm hạnh phúc, cái thích đó nó trở thành sự cột trói, cái thích đó nó khiến cho chúng ta không còn có cái nhìn toàn diện, không có cái nhìn thanh thản được. Nghiện ngập là một thí dụ, với một người nghiện cần sa ma túy thì, chỉ có cần sa ma túy mới làm cho họ hạnh phúc thật sự, không có thì không được. Người nghiện rượu cũng vậy, tất cả sự nghiện ngập, tất cả cái ghiền chúng ta cứ nghĩ là hạnh phúc, nhưng, thật sự nó không phải là hạnh phúc, nó là một sự cột trói khi mình quá thích cái gì. 

Sân thân hệ

Chúng tôi nhớ, một lần ngồi nghe Ngài Ajahn Amaro, một vị sư người Anh nói rằng, cách biểu đạt của người Tây Phương ngày hôm nay họ thường dùng chữ "love and hate" . 

Love nghĩa là yêu thích cái gì đó. 

Hate là ghét cái gì đó.

 Hai từ này, ngày xưa họ dùng ở mức độ chính xác thì ít có cái mình love (yêu thích),  ít có cái mình hate (ghét), thường thường là mình like (thích) hoặc didn't like (không thích). Nhưng bây giờ, người ta nói xã hội "yêu cuồng sống vội", yêu cuồng là mình thích cái gì mình thích quá, cái thích đó làm cho chúng ta đánh mất sự quân bình, tạo cho chúng ta đánh mất bản thân tại bị cột trói. Giống như Trương Chi nhìn mặt Mỵ Nương, hay là, Mỵ Nương mê tiếng sáo Trương Chi, nó không còn là sự hưởng thụ, nó không còn là sự thưởng thức, thay vào đó là sự cột trói.

Bài học này lớn chứ không nhỏ, đối với chúng ta thường hễ cái gì thích thì thích cho tận cùng, thích cho đọa mạng, nhưng, cái thích đó nó trở thành cái gì đó cột chúng ta, cái gì đó khiến chúng ta bị giam hãm lại. 

Yêu thích là như vậy, ghét bỏ cũng như vậy, đây là sự lầm lẫn lớn nhất của con người khi nghĩ rằng thù ghét là vô hại, tự buông mình lao đầu vào sự hận thù ghét đó, mình quên rằng thù ghét nó đơn thuần không phải chỉ là một thứ cảm xúc đến rồi đi, mà thù ghét nó khiến cho chúng ta trở thành một trạng thái bị nhuộm màu. Con mực có khả năng phun mực ra làm cho mặt nước đen ngòm một vùng nào đó để những con vật khác không còn thấy được và trở thành cái mồi cho con mực. Thì một khi người ta bị hận thù, ông bà chúng ta nói một câu đơn giản là, " khi thương, thương cả lối đi, khi ghét, ghét cả tông chi họ hàng", khi mình ghét ai, cái gì thuộc về người đó mình cũng ghét hết, khi mình thù ai, cái gì thuộc về người đó mình cũng thù hết. Tại vì thù ghét người khác nó làm chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên, trằn trọc và, đầy những độc tố.

Cách đây hai tuần, chúng tôi nhận được một bức thư viết tay dày 18 trang giấy của một người ở tại California. Người đó vì sự tranh chấp trong một ngôi chùa, một bên là vị Thầy trụ trì, một bên là người hội trưởng, người viết bức thư đó là ông hội trưởng. Khi chúng tôi đọc thư đó, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là, với 17, 18 trang giấy viết tay chi chít, chỉ nhìn thoáng qua thì thấy rằng người viết lá thư này viết ra ở trong sự phẫn nộ cùng cực. Nhìn bức thư đó chúng tôi có thể cảm nhận ngay sự đau khổ của một người đang trong cơn bực tức phiền muộn, phiền muộn lắm, giận dữ lắm. Nhưng, phải nói như vầy là, mình phải khách quan, phải ngoại cuộc, mình phải nhìn thấy đó là phiền muộn, con người của chúng ta khi đang sống trong sự thù hận, mình không thấy. Nhiều khi mình viết những giòng chữ của hận thù, mình viết có cảm tưởng như ở trong đó còn có sự khoái trá của một người thù hận một ai đó mà nói lên được những câu rất nặng nề. Giống như người ta nói, mình tức ai mình chửi được thì rất hả giận, hả hê khi mà chửi. Nhưng kỳ thật nó không phải là một sự hả hê, mà những cái biểu đạt về hận thù, về ghét bỏ,  chỉ nói lên chúng ta đang bị thiêu cháy, bị đốt cháy. 

Trong kinh Pháp Cú có câu chuyện người thợ săn tên Koka. Một buổi sáng dẫn chó vào rừng để đi săn thì gặp vị Tỳ-kheo đang vào làng khất thực. Thợ săn Koka là người chuyên  sát sanh, bản tính hung hăng, gặp vị Tỳ-kheo thì không thích vì cho rằng gặp một kẻ xúi quẩy. Cả ngày đi săn mà không được gì hết nên bực bội, trên đường trở về lại gặp vị Tỳ-kheo đó khất thực và thọ thực xong trên đường trở về tịnh xá. Từ chỗ có ác cảm buổi sáng cộng thêm cái bực bội cả ngày không săn bắt được gì, bây giờ gặp lại thì cơn giận nổi lên phừng phừng, cơn giận đã không cho phép Koka nghĩ chuyện đúng sai phải quấy và, Koka chỉ bị nung nấu bị đốt cháy bởi một ý tưởng rất điên rồ, chính ông thầy tu này làm hại mình, chính ông thầy tu này khiến cho mình một ngày đi săn không được gì hết, đơn giản như vậy thôi, và ông làm một việc còn điên rồ hơn là, ông xông tới tấn công nhà sư này, ra lệnh cho những con chó tấn công nhà sư. 

Vị Tỳ kheo đó không biết phải làm gì ở trong lúc hoảng hốt vị tỳ kheo leo lên cây, vừa leo vừa kêu gọi sự bình tỉnh của người thợ săn, giống như một lời phân bua, trong lúc vội vã nhà sư leo lên cây thì cái y của vị Tỳ-kheo rớt xuống và, khi y rớt xuống trùm lên người thợ săn koka, và do cái nghiệp của koka tấn công một nhà sư tu hành vô tội. Lúc đó những con chó của chính Koka thấy y ở trên rớt xuống thì nghĩ rằng nhà sư đang rớt xuống và chúng lao tới tấn công Koka, người thợ săn hung hãn đó đã tự mình biến mình thành nạn nhân của bầy chó mình nuôi để đi săn, bấy giờ thay vì mình là thợ săn lại biến thành một người bị săn, những con chó đó đã tấn công cấu xé giết chết Koka, và chẳng những vậy, Koka trong khoảnh khắc sau khi chết sanh vào địa ngục. 

Con người một khi đã vương vào thù hận, vào oan trái rất là đáng sợ, nó khiến chúng ta có cái nhìn rất phiến diện. Cái nhìn của một người hận thù là không còn biết gì hết, thí dụ, những người vương vào hận thù người nào, thấy người đó xấu một thì, nói họ xấu mười, có câu nói "ghét thì ghét cả tông chi họ hàng". Khi cái xấu, cái tệ hại, mình phủ lên người khác thì ở trong lòng mình không còn một chút gì gọi là vô tư, gọi là công bằng, gọi là lẽ phải, mà chỉ biết một chiều thôi. Sự ghét bỏ này rất dễ sợ.

Giới cấm thủ thân hệ

Chúng ta nói về một sự cột trói thứ ba đó là, giới cấm thủ, hay là, sự hành trì những tín ngưỡng dân gian.

Hai sự cột trói trước là, về tham chấp, về thù ghét, mình dễ nhận thấy. Cái gọi là giới cấm thủ là cái gì rất dễ sợ, có lẽ khi chúng ta nói ra thường hay bị đụng chạm, lấy một ví dụ, sự hành trì của phần lớn các tôn giáo đều nằm ở trong giới cấm thủ này, một người bỗng nhiên đặt để niềm tin của mình vào một điều gì đó, nó không có một lý lẽ gì rõ ràng, nhưng, chính vì lý lẽ không rõ ràng đó nên, tin thì tin rất nhiều.

Chúng ta đừng nói đến tôn giáo khác, thí dụ, người Phật tử, chuyện rất đơn giản là mình tin Phật, mình đeo tượng Phật, mình thờ Phật, điều đó không gọi là giới cấm thủ.

Nhưng nếu mình đeo tượng Phật mà nghĩ là tượng Phật này linh hơn những tượng Phật khác thì, điều đó là giới cấm thủ. Có nhiều Phật tử đi thỉnh tượng Phật, thỉnh chỗ này, thỉnh chỗ kia, chúng tôi có gặp một vài Phật tử bên Thái Lan, họ đeo một lúc năm, bảy tượng Phật, và họ tin rằng tượng Phật này của chùa này linh hơn, tượng Phật ở chùa kia linh hơn v.v...

Nếu chúng ta là người Phật tử chân chánh, chúng ta không nghĩ tượng Phật bằng ngọc linh hơn tượng Phật bằng ximang, tượng Phật chùa này linh hơn tượng Phật chùa kia. Phật là Phật thôi. Chúng ta thờ Phật, không phải tượng Phật làm bằng gì thì linh, chúng ta thờ Phật vì, Đức Phật là bậc cao cả vĩ đại, bậc giác ngộ. Và tất cả những pho tượng Phật đều chỉ là một biểu tượng. 

Tín ngưỡng nhân gian thấy như vậy mà nó ăn sâu chắc chặc tạo thành, ví dụ như, tín đồ các tôn giáo, đôi khi họ cảm thấy rất quan trọng việc một pho tượng chảy nước mắt, thật ra nếu thần thánh linh thiêng thì, có nhiều cách để hiển hóa năng lực của mình chứ đâu nhất thiết là chảy nước mắt. Về sau này người ta chứng minh rằng, chỉ một ít thủ thuật về hóa học người ta có thể làm pho tượng thấy dường như là chảy nước mắt. Nhưng, điều đó có sức hấp dẫn đặc biệt với một số người. Chúng tôi quen rất nhiều người Phật tử là bác sĩ,  là trí thức, nhưng lời của Phật dạy chân thật rõ ràng thì họ không thích, không tin, lại tin vào những chuyện mơ hồ, những chuyện dị đoan, mê tín thì rất là tin. 

Giới cấm thủ không phải chỉ tạo nên những hình thái tín ngưỡng nhân gian mà nó tạo nên nhiều thứ tôn giáo, mới thấy thì vô hại, mới thấy thì nghĩ đó chỉ là tín ngưỡng thôi, nhưng kỳ thực tin vào những thứ đó làm chúng ta đánh mất niềm tin ở nhân quả, làm chúng ta đánh mất đi những niềm tin vào sự thật. 

Cách đây mấy hôm, chúng ta có một bài học, học về hộ trì chân đế. Nhưng, nói nôm na là những phương châm của sự tu tập, đó là, tôn trọng và bảo vệ sự thật, cái gì vô thường chấp nhận nó vô thường, cái gì khổ chấp nhận nó khổ, cái gì vô ngã chấp nhận là vô ngã, cái gì bất tịnh chấp nhận bất tịnh, sự thật như thế nào mình phải có can đảm nhìn như vậy. Chúng ta chưa đến với sự thật thì chúng ta đã bóp méo sự thật rồi, chúng ta chưa đến với sự thật thì chúng ta đã chấp chặc vào những điều huyển hoặc rồi, làm sao chúng ta đến với sự thật được khi:

Phi chân tưởng chân thật,
Chân thật tưởng phi chân,
Những ai chấp thủ tà vại,
Không bao giờ đạt đến pháp chân thật.

 Đó là lời dạy trong kinh Pháp Cú. 

Cái khó trong đời sống chúng ta là không phải chỉ áp dụng nhân quả, không phải chỉ tin nhân quả mà, còn dám sống với nhân quả. 

Thời gian gần đây, ở VN rộ lên nhiều tin tức về một ngôi chùa rất giàu rất lớn tên là, chùa Ba Vàng. Ở ngôi chùa này, người ta nói về sự thỉnh vong để giải nghiệp giải oan và, để làm điều giải oan cho những vong linh đã chết một cách oan ức người thân phải cúng một số tiền vào chùa này. Chuyện thỉnh vong đó vì lý do này lý do khác nó rộ lên rồi lọt vào trong tầm ngắm, làm dư luận quan tâm, nhưng phần lớn là phẫn nộ, đã tạo thành một scandal. Nhưng kỳ thực, chuyện này là chuyện không phải chỉ có một ngôi chùa, chuyện đó rất phổ thông ở trong tín ngưỡng nhân gian, nó đã ăn sâu, nó đã phổ khắp và, nó đã thành cái nết của Phật giáo VN, Phật giáo Trung Hoa, lâu đời chứ không phải mới đây.

Ở bên Mỹ, sau này có hiện tượng cúng kiếng đám tang nghi thức rất lễ mễ rườm rà. Ngày xưa khi chúng tôi mới sang Mỹ vào năm 1980, nghi thức đám tang tương đối giản dị. Sau này có phong trào quí thầy ở VN qua, chúng tôi phải nói quí thầy cúng, quí thầy bầy nhiều chuyện lắm, bầy người chết phải mặc cái gì, phải đắp khăn nào mới vãng sanh, ở trong đó ảnh hưởng phần là đạo lão, bây giờ ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng, đủ thứ chuyện, nội việc thỉnh vong, rước vong, rước tới rước lui, cũng mệt. Chúng tôi nói cũng mệt là phát sanh ra nhiều chuyện phiền toái, chúng tôi không biết Phật tử họ thích hay không thích, nhưng, có nhiều tang chủ, khi người thân nhân mất họ nghĩ những thầy cúng như vậy là, cúng kỹ, cúng đầy đủ. Mặc dù, nghi thức rất rườm rà, người đời lại ưa chuộng cái rườm rà. Đó là giới cấm thủ.

Chúng ta đang ở trong lớp Phật pháp nên chúng tôi nói thẳng chứ ở bên ngoài chúng tôi ít nói. Những điều đó là giới cấm thủ, 

Tại sao là giới cấm thủ? qúi vị cứ tưởng tượng như vầy là, tại sao lại nghĩ đến chuyện cầu siêu cho người chết, tức là cầu cho người chết được siêu thoát, bây giờ mình lại rước vong về chùa cầu siêu thoát, mà đã siêu thoát thì vong đâu ở chùa. Đó là mâu thuẫn rất rõ ràng, nhưng, người ta vẫn tin, người ta vẫn theo, người ta vẫn làm. Tại vì đó là, tín ngưỡng nhân gian, cái lề thói, cái suy nghĩ. Bây giờ, bắt đầu người ta đã than thở về chuyện phong thủy, chuyện bùa chú. chuyện ngải. Nhưng thật ra, chuyện bói toán, chuyện phong thủy tràn ngập các ngôi chùa, tràn ngập tín ngưỡng của người Phật tử mà nếu chúng ta không khéo càng ngày chúng ta càng xa, đánh mất chất của Phật Pháp ở trong đời sống của mình. Và, mình phải nói một điều là, khi mình nhìn lại những người đó mình mới thấy giới cấm thủ là sợi dây ràng buộc rất lớn.

Thử thực chấp thân hệ

Điều sau cùng trói buộc chúng ta đó là, sự cố chấp một cách phiến diện, chỉ có đây mới là sự thật, ngoài ra đều hư vọng. Sự cố chấp này, một lần nữa lại nói lên chúng ta biến mình làm nạn nhân của cái nhìn rất hạn hẹp của mình. 

Nói một cách đơn giản là, khi mình chọn một món đồ, ăn một món ngon, mình nói đó là nhất rồi thì, nó thuộc về cái cột trói bởi sự tham chấp. Thấy như vậy nhưng không dễ sợ bằng quan niệm là, cái gì mình tin, tin vào quan niệm chỉ có đây mới là đúng, ngoài ra là hư vọng, chúng ta phủ nhận những giá trị khác, thì chúng ta có vấn đề. Đó là, một chứng bệnh trầm kha, đặc biệt, ở trong thế giới của tôn giáo, trong thế giới của học thuật. Một trong những đặc điểm khoa học là cho phép chúng ta đặt lại vấn đề, cho phép chúng ta lắng nghe người khác, xã hội của loài người và đặc biệt Tây Phương ở trong bốn thế kỷ qua phát triển mạnh mẽ là nhờ vào một nền tảng gọi là  Scientific, chúng ta gọi là khoa học, khoa học không phải là những khám phá mới đơn thuần, mà khoa học là một cách nhìn mới, cách nhìn đó giúp cho chúng ta dám thí nghiệm, dám chấp nhận những cái mới, dám cải thiện sự thất bại và dám bỏ đi cái cũ.

Khi con người bắt đầu tự đặt vấn đề rằng, nếu trên phương diện khí-động-lực học mình có thể dùng một lực đẩy để nâng một vật nặng lên, khiến cho vật đó bay ở một khoản cách xa thì, người ta mơ ước đến tạo ra những chiếc máy bay. Có một người không phải nhân vật tầm thường đã thốt lên một câu rằng, "Nếu Thượng Đế muốn cho loài người bay thì ngài đã tạo con người có cặp cánh". Câu nói đó nói ngày hôm nay thì chúng ta chỉ cười thôi, tại vì, chúng ta đã thấy những máy bay siêu thanh bay trên bầu trời và, chúng ta không có cảm nhận là câu nói đó có giá trị, nhưng, về thời kỳ bình minh của ngành động-khí-lực học, thời kỳ tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở trong xã hội loài người thì câu nói đó nặng ký lắm, "Nếu Thượng Đế muốn cho loài người biết bay thì Thượng Đế đã tạo cho loài người đôi cánh", nhưng quả thật đó là, một quan niệm nghĩ  "chỉ có đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".

Ngài Rahula viết một chương trong cuốn "Con đường thoát khổ" hay trong cuốn sách "Những lời Phật dạy", chương đó gọi là, thái độ tinh thần Phật học, trong đó Ngài nói một điểm quan trọng là, Phật Giáo nói đến một thứ chân lý không nằm theo nhãn hiệu:

 "Có gì trong một danh từ? 
 Hoa hồng hương ấy cho dù tên chi."

Gọi là rose cũng được, gọi là hoa hồng cũng được, gọi tên gì cũng được, nhưng, hoa hồng vẫn là hoa hồng, chỉ là danh từ thôi. 

Con người nếu sống có tâm từ, tâm bi thì dù ở tôn giáo nào, ở văn hoá nào, ở xã hội nào, ở hoàn cảnh nào, từ bi vẫn có giá trị của nó, lòng từ bi không phải là đi với danh nghĩa của một tôn giáo, hay, một tên gọi gì đó cho đẹp, cho kêu. Từ bi chỉ là từ bi thôi. 

Trong nhiều đoạn kinh điển của Đức Phật, đạo Phật giá trị của sự thực không nằm trong hệ thống tín ngưỡng, trong danh gọi. Một người đi tìm Đức Phật nhận Đức Phật là Thầy mình, chưa từng gặp Phật, tá túc trong một ngôi nhà cỏ, gặp một vị Samon và, nghe vị Samon thuyết pháp, vị đó đã hiểu pháp trước khi biết người nói pháp đó là Đức Phật, chúng ta nói trường hợp Tỳ kheo Pukusati, vị đó hiểu pháp mà không cần biết trước người giảng pháp đó là Đức Phật cho đến khi nhận ra được rằng, đây là bậc Đạo Sư của mình.

Có vô số trường hợp trong kinh điển, một người đọc được chân lý từ một đóa sen tàn, một người đọc được chân lý từ một giọt nước rơi từ gót chân của mình hòa với giòng nước, có những người đọc được chân lý ở trong nhiều nhiều hoàn cảnh khác nhau, chứ không phải trong những nhãn hiệu. 

Chúng ta ngày nay bị mê hoặc bởi nhãn hiệu. Trong thái độ khoa học, không phải khoa học là cái gì về máy móc, nói về khoa học là thái độ chấp nhận những sự thật do thực nghiệm và, nếu sự thật này được trải nghiệm đúng thì chấp nhận, còn nếu không thì chúng ta rất dễ rơi vào tình trạng phiến diện, quan điểm của mình là nhất, người khác nói là sai, cách nói võ đoán nói là chỉ có đây là sự thật ngoài ra là hư vọng khiến cho người ta trả giá rất đắt. Bởi vì sao vậy? chúng ta từ chối một hình thái tự nhiên nhất của sự thật, đó là sự thật nó không phải chỉ có một, ở một con người, ở một nơi, ở một khoản khắc, ở một nhãn hiệu, cái gọi là chân lý có mặt trong nhiều trạng thái, nhiều, dạng thức khác nhau.

Nếu một người Phật tử, thật sự yêu thích đạo Phật, thật sự quí lời dạy của Đức Phật thì, người Phật tử đó phải hiểu rằng, gọi là chân lý, gọi là sự thật, có thể tìm thấy ở rất nhiều nơi, ở rất nhiều trường hợp, trong nhiều ngọn ngành, và nhất là, mình không nên nghĩ là chỉ có gì mình nghĩ là đúng, còn ngoài ra tất cả là hư vọng hết. Điều đó tự mình nghiệt ngã chính mình, tự mình đóng khuôn với chính mình, tự mình trói cột lấy chính mình và, nó không có lợi ích gì cho mình hết. Chúng ta sống trong một thế giới con người càng lúc càng gần với nhau, chúng ta sống ở trong thời đại con người được nhiều hiểu biết với nhau, để thấy cái đẹp của nhau, không có lý do gì chúng ta nói là, cơm ngon hơn khoai mì, ngon hơn khoai tây, ngon hơn bánh mì.

Chúng tôi nhớ hồi nhỏ sống ở Long Thành, nhiều khi anh em ngồi nói chuyện với nhau, người thì mươi tuổi, người mười, mười một tuổi, người hai mươi tuổi, ngồi bàn luận rất tâm đắc, nói rằng, "Nói đi nói lại, ở trên thế giới này chỉ có thứ tiếng hay nhất, đẹp nhất, nghe thấm thía, dễ học nhất, đó là, tiếng Việt của mình, tiếng Việt đọc sao viết vậy và, rất là  tự hào tiếng Việt dễ học nhất. Nhưng mà, bây giờ mình mới thấy tiếng Việt không phải là dễ học đối với nhiều người, người nước khác đọc tiếng Việt muốn trẹo lưỡi, chứ không phải là dễ. Chúng ta cũng thường nghe câu nói rằng, tiếng Việt rất là phong phú, tại vì một chữ hai ba nghĩa. Nhưng thật ra, không chỉ tiếng Việt mà tất cả ngôn ngữ các ngôn ngữ khác đều như vậy hết. Chúng ta cứ ôm lấy và nói tiếng Việt là phong phú nhất. Thí dụ như vậy.

Thì sự cởi mở cho phép chúng ta mở mắt ra nhìn bầu trời cao rộng hơn. Một thế giới không có tự mình nghiệt ngã, tự mình cột trói chính mình. 

Chúng ta nhìn lại bốn hệ phược ở tại đây, chúng ta thấy rất rõ tại sao Đức Phật Ngài dạy rằng, chính mình làm cho mình uế trược, chính mình làm cho mình thanh tịnh, thanh tịnh và uế trược là do mình, không ai có thể khiến người khác thanh tịnh hay uế trược.

Khi chúng ta đọc về bốn cột trói:

- Bị cột trói vì quá thích.
- Bị cột trói vì quá ghét,
- Bị cột trói vì giới cấm thủ.
- Bị cột trói vì chấp rằng chỉ có đây sự thật và ngoài ra là hư vọng.

Chúng ta sẽ cảm thấy rất thấm thía là người mà cột mình chính là mình, mặt dầu truyện Kiều nói rằng, "chém cha cái số ba đào, cởi ra rồi mắc vào như chơi", cái số ba đào đó nghe như là định mệnh, nhưng mà, thật ra chính bản thân mình, mình là người cột trói chính mình.
Đó là vài điều chúng tôi chia sẻ về ý nghĩa của bốn hệ phược./.