Thursday, May 30, 2013

Những niềm hi vọng lớn là gì?

Hỏi: Những niềm hy vọng lớn là gì? 

(Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng giảng: Hy vọng là cái gì? đời sống của chúng ta có thể nói rằng phần lớn hạnh phúc nằm ở trên dự kiến về tương lai, ngày mai này mình có đủ lý do để tin tưởng rằng tương lai của mình sẽ tốt hơn, rạng rỡ hơn, có nhiều hứa hẹn hơn, thì chính điềm này cho chúng ta năng lực để sống.  Có những người sống trong điều kiện rất cực khổ, họ có thể là một người thiếu phụ sống bên nhà chồng giữa những người xa lạ và chịu đựng trăm cay ngàn đắng, lấy nước mắt chan cơm. Nhưng khi bồng đứa con trong tay của mình rồi thì người đó chợt nghĩ đến là mình làm thế nào để con lớn lên, đời sống mình sẽ khá hơn, tất cả niềm hy vọng đặt ở đứa con của mình và họ đã sống vì đứa con của mình. Và nàng thiếu phụ đó có thể chịu đựng được một sự chịu đựng, có thể đối với phần lớn những phụ nữ thời này là những sự chịu đựng phi thường, chịu đựng trong nhiều năm như vậy tại vì người đó sống bằng hy vọng.

Một số người Việt rời bỏ Việt Nam bằng đường bộ, đường biển vào những năm sau năm 75, có đôi khi họ sống trên những con thuyền mà máy không còn chạy được nữa, thực phẩm hết, nước uống hết, những lúc đó họ chỉ sống bằng hy vọng một chiếc tàu buôn nào đó đi ngang sẽ thấy và vớt họ, hy vọng sẽ tấp vào một hoang đảo, hy vọng gặp bất cứ một thứ gì đó để họ có thể sống sót được và niềm hy vọng tuy rằng hơi mòn mỏi đó, nhưng nó cũng khiến cho người ta có được niềm tin sống về tương lai.

 Thế giới này được vận hành ở trong sự hướng vọng về một ngày mai, ngày mai đó đất nước sẽ như vậy, xã hội sẽ như vậy, và bản thân mình sẽ như vậy.  Dĩ nhiên nói đến hy vọng, người ta hy vọng cái gì tốt đẹp hơn, cuộc đời của một con người nói chung là bao nhiêu trào lưu xã hội là một khát vọng không ngừng của tương lai, một tương lai sáng sủa, và niềm hy vọng bất tuyệt đó chính là chất sống, là một chất liệu mà hầu như ai cũng phải có, dầu hình thức này hay hình thức khác. 

Chúng tôi nhớ rằng có nhiều tôn giáo, ở trong đó nổi bậc nhất là Tin Lành đã dùng một tiêu đề của tôn giáo mình là bình an và hy vọng, người ta nói về lời hứa của Thượng Đế, lời hứa của đức Chúa sẽ trở lại trần gian này.  Người ta nói lời hứa của đức Chúa cho những người đặt trọn niềm tin ở Chúa, người ta nói về một vườn địa đàng sẽ được tái thiết lập ở trên mặt đất này trong tương lai.  Dầu trên phương diện lý tính như thế nào đi nữa, thì đã có một số người đón nhận niềm tin đó như một lẽ sống của mình, bởi vì họ muốn tìm ở đó một cái nhìn niềm hy vọng giữa trần gian, dù có bấp bênh vô định, giữa trần gian vốn tự rất ít người thoả mãn trong giây phút này. 

Không có cái gì làm cho chúng ta thoả mãn được hết. Có những giờ phút mà mình buồn quá không có chuyện gì làm, bỗng nhiên một ngày người bạn mình giới thiệu vào trong paltalk, mình làm quen với chương trình sinh hoạt Phật pháp, cả tâm hồn mình vui hẳn lên tại vì nó có một cái gì mới. Nhưng rồi trong nhiều năm nhiều tháng trôi qua, công việc nó lại quá bình thường đi, khi nó quá bình thường thì có đôi khi rảnh thì vào, không rảnh thì thôi, có đôi khi mình cảm thấy không có gì hứng để vào tham dự một chương trình gì nữa và lúc đó chúng ta lại tiếp tục lên đường. 

Ðó là dấu hiệu cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của chúng ta, cuộc sống này vốn là một cuộc truy tìm, là một cái gì hướng tới và trong sự truy tìm hướng tới đó, có đôi khi chúng ta hoàn toàn mất đi khả năng lý luận, mất đi sự suy tư của mình, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào những điểm gọi là dị đoan, linh thần.  Một lá xâm đầu năm, mà lá xâm đó báo hiệu một năm mới cát tường, quẻ đó là quẻ thượng thượng, thì một quẻ đại cát hay quẻ thượng thượng làm cho chúng ta cảm thấy phấn khởi, cả năm mới này là năm của tràn trề hy vọng.  Rồi đôi lúc quí vị có một đứa con ở trong nhà mà nó hiền ngoan, chẳng những vậy mà còn học giỏi nữa, mỗi lần quí vị thấy đứa con cắp sách về hay  đứa con ê a đọc chữ, thì trong lòng cả niềm hy vọng lớn, lớn lên nó sẽ là một đứa con có hiếu, nó sẽ là một đứa con làm ra tiền bạc phụng dưỡng cha mẹ, nó sẽ là đứa con làm rạng rỡ tông môn v.v. và v.v..

Chúng ta có vô số tín hiệu để đi tìm một niềm hy vọng, cái tín hiệu đó có đôi lúc nó chỉ là một cái ảo giác được tạo nên bởi một vị Thầy bói, cái tín hiệu đó có thể là một ngày nào đó bỗng nhiền chúng ta thấy một con nhện trắng sa xuống trước mặt mình, người Trung Hoa họ nói rằng đó là dấu hiệu của tiền bạc vào, và lúc bấy giờ thì mình cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy được hứa hẹn.  Ở trong một xã hội, đặc biệt là xã hội Ấn Độ, là xã hội của chiêm tinh của bói toán, người ta nói nhiều về những điềm lành, người ta nói nhiều về những dấu hiệu của may mắn, tất nhiên người ta cũng nói nhiều về những dấu hiệu của sự xui xẻo, như người Việt Nam của chúng ta ảnh hưởng người Trung Hoa, có khi buổi sáng ra đường gặp một phụ nữ mang thai chẳng hạn, có nhiều khi họ nghĩ những chuyện đó không có may mắn, nhưng rồi cũng có những dấu hiệu khác.  

Chúng tôi nhớ rằng ở chùa mà mỗi lần làm việc gì mà có mưa xuống thì một số Phật tử tin rằng mưa là một dấu hiệu của may mắn, hay kỳ rồi ở tại California chúng tôi đến dự một đám tang, và một ngày truớc ngày động quan, ngày đưa ra để mai táng tại nghĩa trang, thì bấy giờ trời mưa rất nhiều và mọi người nói rằng ngày mai mà đưa đám trời mưa như thế này thì con cháu sẽ làm ăn khấm khá, nhưng rồi ngày hôm sau, ngày di quan thì trời quan mây tạnh, trời rất đẹp và đó là một trong những buổi sáng đẹp của mùa xuân ở tại California, khi trời đẹp không có mưa, thì chúng tôi cũng không nghe ai nhắc đến mưa bao giờ, và cũng không ai cầu nguyện cho mưa, và cũng không ai nói rằng mưa thì may mắn, con cháu làm ăn khấm khá, và không mưa thì con cháu làm ăn không khấm khá, người ta không nói như vậy, người ta chỉ biết một điều là có mưa thì tốt, còn trời không mưa thì cũng tốt thôi!!!. 

Nói chung là niềm hy vọng ở tương lai nó chi phối cái suy nghĩ, cái nhìn của chúng ta nhiều như vậy, chúng ta biết rằng mình thường xuyên sống với niềm hy vọng và chính những niềm hy vọng cho chúng ta niềm hăng hái, cho chúng ta nhiều chất sống.

Nhưng  rồi lấy cái gì để mà hy vọng?

Chúng ta dựa vào những dấu hiệu của đời sống để mà hy vọng. 

Dấu hiệu đó là gi`?.

Là một cái gì đó khả dĩ hứa hẹn. Hồi nãy chúng tôi nói chẳng hạn, một người mất mà ngày đi đưa đám trời mưa xuống thì người ta tin rằng con cháu làm ăn khấm khá, cái đó cũng là cách mà người ta đi tìm những tín hiệu của tương lai.  Chúng ta không có một crystal ball, chúng ta không có một trái cầu bằng pha lê để trước mặt để nhìn thấy về tương lai, và chúng ta hoàn toàn nhìn tương lai như là điều bí ẩn, ở trong điều bí ẩn đó thì chúng ta lại cố gắng nhìn vào hiện tại này từ cái đường chỉ tay ở trên bàn tay của mình cho đến lá số tử vi của mình, cho đến những lời tin tưởng hứa hẹn ở chung quanh, ở công sở, công ăn việc làm, cho đến những điều gì đó mà rải rác đó đây ở trong, ở ngoài, hoặc giả là hình thức này, hình thức khác tìm thấy một tín hiệu của tương lai. 

Các dấu hiệu đó cho chúng ta biết rằng tương lai mình sẽ như thế nào, một câu hỏi lớn của đời sống, là cái gì là dấu hiệu cát tường, cái gì là điềm lành để báo trước, đã có nhiều năm người ta đi tìm những dấu hiệu như vậy ở trong cuộc đời, nhưng  không ai có một câu hỏi thoải đáng và thường là những câu trả lời thời xưa đó mang tánh cách những câu trả lời của những vị đạo sĩ của những nhà chiêm tinh bói toán và những điều này thì hòan toàn nằm trong ở những cảnh giới của những người chuyên về những ngành nghề nào đó, nhất là nghề bói toán. Còn con người sống ở trong xã hội bình thường thì những gì họ tin vào thì đa số những niềm tin đó mang tánh cách dị đoan, mang tánh cách niềm tin hảo hơn là niềm tin có cơ sở, không phải chỉ có loài người, mà chư thiên cũng chia sẻ tâm trạng như vậy, những bàn tán, những thắc mắc của thế giới loài người cũng ảnh hưởng đến chư thiên, ảnh hưởng đến loài phi nhân. 

và ở trong câu chuyện một vị tiên nữ đã đến hỏi Đức Phật về những điềm lành, cái nào là dấu hiệu hứa hẹn cho một tương lai tốt đẹp và ở đây dĩ nhiên hỏi rằng cái gì là brùhi mangalamuttamam, cái gì là điềm lành tối thượng, cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất, hay nói một cách khác là cái gì mang lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn nhất ở trong cuộc đời.

Wednesday, May 29, 2013

Đối với người xuất gia có thể hoan hỷ với những vật cúng dường hợp pháp hay không?

Hỏi: đối với người xuất gia có thể hoan hỷ với những vật cúng dường hợp pháp hay không, và sự hoan hỷ đó có phải là một sự vọng cầu về tứ sự cúng dường của bậc xuất gia hay chăng?

(Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh trả lời)

TT Giác Đẳng trả lời:  Có một vài điểm cho bậc xuất gia, điều đó gợi ý rất lớn từ cái nhìn và sự hướng dẫn của Đức Phật, thường thường thì chúng ta nghĩ rằng một người xuất gia cắt ái từ thân, đối với tài sản, đối với vật dụng, đối với những nhu yếu của đời sống, tốt hơn hết tâm buông xả hoàn toàn không có dính mắc. Cái nhìn này  là một cái nhìn rất lý tưởng và rất đẹp ở môt phương diện nào đó, nhưng lại có một khía cạnh khác liên quan đến nghệ thuật sống mà chúng ta được biết, được Đức Phật Ngài dạy là nếu chúng ta lựa trọn một đời sống, đời sống đó là một đời sống hạn chế trong nhiều phương diện.

Thì cái gì nằm trong phạm vi hạn chế mà hợp đạo thì chúng ta nên hoan hỷ, điều này  là một ỳ nghĩa có thể làm chúng ta bậc ngữa ra, tại sao lại có trường hợp như vậy? Bởi vì, có đôi lúc những thứ đó nó không phải khiến cho chúng ta hoan hỷ, bởi vì nó đẹp hơn trong quan điểm của so sánh, nó có giá trị hơn trong quan niệm về giá trị vật chất tiền bạc mà người ta nói ở bên ngoài.  Người ta nên hoan hỷ  bởi vì thứ nhất là nghệ thuật tri túc, tri túc tức là biết đủ không có mong cầu nhiều, ít muốn không tham. 

Nhưng căn bản của sự tri túc là bằng lòng, hay vừa lòng cái mà mình có, cái mà mình có không phải là dễ dàng để mình bằng lòng, thông thường chúng ta có cái gì ở trong tay của mình, thì mình nhìn nó rất rẻ rúng, chúng ta nhìn những cái gì mà mình có trong tay với một thái độ xem thường, chính thái độ xem thường đó, nó không có nghĩa là chúng ta không có dính mắc với nó, thái độ xem thường đó có thể bởi vì chúng ta tự trong lòng mình nói rằng cái này nó không đáng gì hết.

Nhưng, một trong những nghệ thuật để chúng ta ít ham muốn, là chúng ta nên vui với cái mà mình đã có, đang có, và cái đó là một nghệ thuật của hạnh tri túc. Vui với cái mình có nghĩa là thế nào, cái gì mình có thì mình nên dành cho nó một sự quan tâm, ngoài cái sự quan tâm đó thì chúng ta tìm thấy sự lợi lạc, vào thời đại mà con người sống có quá nhiều cái mới.  Có nhiều người họ than phiền rằng một máy computer mà chúng ta mua về, chúng ta không tận dụng được hết những công năng của nó, chúng ta mua một máy casset về, chúng ta không sài hết chức năng của máy mang lại, và chúng ta chỉ mong cầu cái gì mới, chúng ta chỉ mong cầu cái gì ở xa.

Do vậy, có khi chúng ta có rất nhiều mà chúng ta không sài hết, nếu chúng ta thật sự biết nó, chúng ta thật sự sài hết, thì  thưa quí vị chắc chắn rằng chúng ta sẽ rất hoan hỷ.  Nên cái đức tánh tri túc, không có nghĩa đơn thuần chúng ta không thích thú đối với những cái mà mình không có, và còn có hàm ý nghĩa rằng chúng ta biết tận dụng cái mà mình có và dùng nó một cách xứng đáng.  Và nên hoan hỷ với điều đó, hoan hỷ với ỳ niệm, nghĩ rằng đây là vật phát sanh lên do chánh mạng, chúng ta sử dụng vật đó với một mục đích hoàn toàn hợp tình hợp lý.

Ở trong kinh có đưa ra một số các trường hợp một người xuất gia. Ví dụ như sau mùa Tăng y Kathina một vị xuất gia có một số quyền lợi, 5 quyền lợi được đề cập đến sau mùa an cư, là cho phép vị này được nhẹ nhàng thoải mái hơn trong sự sử dụng y phục, thực phẩm và những nhu yếu khác.  Những điều này một người xuất gia nên hoan hỷ, hoan hỷ không phải vì những thứ đó ngon hơn, nó đặc biệt hơn, nó tốt hơn mà mình hoan hỷ là bởi vì mình đã được phép sống ở trong một cái khuôn khổ luật nghi, mà Đức Thế Tôn đã đưa ra điều đó là trọng, là khinh, là một cái gì rất nghiêm khắc hay  cái gì được mở rộng ra, thì ở trong phạm vi nào mình cũng vui, vui khi thấy rằng mình sống trọn vẹn ở trong cái phạm vi đó.

Điểm này là điểm tương đối rất khó hiểu, một trong những điểm khó hiểu về phương diện tâm lý, về phương diện ứng dụng vào trong đời sống, nếu quí vị nào nghe Sư Uyên Minh thường giảng bài trong rơom này, Sư Uyên Minh thường hay nói câu "có đôi lúc người ta không nên cầu nguyện lấy được người mình thương, mà mình hãy xin cầu nguyện làm sao thương được người mình lấy".  Câu nói đó nghe như một câu nói khôi hài, nhưng thật sự chúng ta có nhiều lúc chúng ta không nên mong mỏi sẽ đạt những gì mình thích, mà mình phải làm sao có thể thích được những gì mà mình đang có được, đó là một bí quyết sống rất lớn và phải nói rằng nó không có đơn giản.

Là một người xuất gia, trong thời gian chúng tôi sống với Ngài Achan Chaa, chúng tôi để ý thấy rằng Ngài có một số điểm hết sức đặc biệt, đó là điều mà chúng tôi học được ở Ngài, là một vị đệ tử mà xuất gia sống với Ngài thì bất kể là cái y, cái bát được phát, lúc phát cái bát có thể tốt hay không tốt, hoặc y có thể tốt hay không tốt.  Nhưng Ngài khuyên  nên chăm sóc cho đoàng hoàng, cho tươm tất và Ngài thường nhắc rằng mình là người xuất gia mà minh không xem trọng cái y của mình, mình không xem trọng cái bát của mình, thì cơ nguy của sự dễ dui, hay sự dễ ngươi phát sanh.  Ở trong chùa vị nào với cái y, cái bát, với bàn Phật, mà không  trân trọng, mình xem thường, thì rất có khả năng là vị đó sẽ rời bỏ đạo tràng sớm, rời bỏ cuộc tu rất sớm.

Ở trong cuộc tu, trong thế giới đó nó phải có cái gì mà chúng ta gọi là gởi gấm cái tâm tư của mình, trong sự gởi gấm tâm tư của mình nó mang lại ý thức về sự có mặt của mình ở trong cảnh giới đó, ví dụ như người Nhật Bản mà họ có những nghệ thuật như nghệ thuật ekinawa, nghệ thuật trưng hoa chẳng hạn, một căn phòng rất đơn giản họ cố gắng sắp xếp như thế nào đó, có một cái bàn đơn giản, một cái bình hoa đơn giản, nhưng mà nó làm sao cho chúng ta bước vào, mà cảm thấy rằng không gian đó đang chứa đựng cả một thế giới, có cái gì thâm trầm và căn nhà đó trở nên có ý nghĩa, mặt dầu nó chỉ có vài ba thước vuông thôi, chớ nó không phải là cái gì to tát, một căn nhà hào nhoáng, nhưng có thể làm không gian trở lên có ý nghĩa.  Đó là một nghệ thuật rất lớn, nghệ thuật đó đã nuôi dưỡng bao nhiêu tinh anh, bao nhiêu  tâm tư của những con người và nó thật sự phải nói rằng chính nghệ thuật của thiền Zen đã duy trì được nền văn hoá của Nhật Bản không bị sự xâm thực văn hoá từ nước ngoài.

Nên chi, trong đời sống của vị xuất gia, thì  Đức Phật Ngài dạy rằng chúng ta nên biết chăm sóc lấy y bát, những vật dụng, thứ nhất không có hoang phí những gì mà tín thí họ đã cúng dường cho mình, và thứ hai nữa mình có thể hoan hỷ trong đó, thì điều đó có ý nghĩa lợi lạc cho sự tu tập. 

Và cũng tương tựa như vậy, những người Phật tử đi chùa, có nhiều khi không phải chùa to Phật lớn, thì chúng ta mới cùng nhau chăm sóc ngôi chùa, chúng ta cố gắng chăm sóc cái gì đang có trong ngôi chùa, và phải nói rằng người Phật tử Việt Nam rất  hờ hững về việc này, làm sao cho ngôi chùa từ trong ra bên ngoài, từ bàn Phật cho đến ngoài sân ít người hay đông người, chúng ta cũng cố gắng để chăm sóc và tìm được nét đẹp, tìm được cái hay, như vậy chúng ta mới có thể gợi gấm được tâm tư của chúng ta trong cuộc sống đó.

Tuesday, May 28, 2013

Chớ có chế ngự ý

Hỏi : Chớ có chế ngự ý, nếu tư giữ đặt được chỗ nào các pháp khởi chỗ ấy chế ngự ý

. (Kinh Pháp Cú kệ ngôn 101 giảng ngày 17 tháng 6 năm 2003 - Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Chúng tôi xin được nói vắn tắt về câu hỏi này. Cuộc sống của chúng ta là một giòng sông, tâm tư của chúng ta tuôn chảy và nếu một người nghĩ rằng có thể dùng đôi bàn tay nhỏ bé của mình để chận lại giòng cuồng lưu thì là một chuyện không thể làm được. Một người khi vào hành thiền thường ai cũng trải qua một giai đoạn rất khó khăn là phải làm cái gì đối với cái vui cái buồn, đối với tâm định và tâm không định của mình. Thái độ thông thường của chúng ta là hay vật lộn hay dằn co, và khi chúng ta vật lộn dằn co lâu ngày chúng ta rất mỏi mệt, chúng ta không hiểu được cái tự nhiên của sự việc như thế nào. Câu chuyện ngài sadi Sukha hay là sadi Tissa thấy một người đào đường mương để dẫn nước vào trong ruộng là một ví dụ là đối với tâm ý của mình. Và ngay cả đối với cuộc sống của mình chúng ta nên có thái độ hợp tình hợp lý, nếu chúng ta chỉ nghĩ rằng lúc nào chúng ta cũng phải vận dụng cũng phải điều khiển và cũng phải khiến cho những thứ đó như cách này hay cách khác thì có thể chúng ta làm một sai lầm lớn, là bởi vì chúng ta đã không nhận ra được rằng chúng ta không có khả năng làm việc đó.
Lấy một ví dụ là nếu chúng ta có thể ra lệnh cho chúng ta là đừng tham nữa, chúng ta ra lệnh cho chúng ta đừng sân nữa và chúng ta làm được như vậy thì chúng ta đã có thể đắc đạo chứng quả, và thay vì chỗ đó thì chúng ta nên có một phương cách để làm sao mà chúng ta giảm bớt cái tham cái sân. Thí dụ như chúng ta biết rằng mình ở gần một người nào hay là mình ở một trú xứ nào hoặc giả là mình tu pháp môn gì mà biết chỗ đó phiền não sanh khởi thì chúng ta cố gắng để giảm thiểu bớt đi.
Chúng tôi muốn nhắc lại hình ảnh của vị thiền sư là Ngài Ajahn Mun nhận vào trong chùa một vị sư, vị sư này rất có đức tin với Ngài và luôn luôn làm những công việc của một người thị giả rất tận tụy nhưng vị này tu tập lại không tiến bộ nhiều, đến một hôm vị này lên bạch với Ngài:
"Bạch Thầy, con đã theo Thầy tu tập cũng gần ba năm nhưng sao con không thấy một tiến bộ gì trong đời sống thiền định."
Thì Ngài Ajahn Mun mới nói rằng: "Nếu ông có mang theo cái gì thì nên bỏ cái đó đi."
Thì lúc bấy giờ vị này toát mồ hôi vì biết rằng Ngài Ajahn Mun đã biết được mình đã mang theo một vài thứ mà không nên mang theo. Nguyên vị sư này lúc còn là cư sĩ thì vị này là một người đánh boxer rất nổi tiếng. Chúng tôi nói một cách tóm tắt là tại Thái Lan họ có một ngành võ đánh boxer tương tựa như đánh boxer quyền Anh của người Anh, nhưng bên quyền Anh thì chỉ dùng tay không dùng chân, còn kiểu đánh boxer của người Thái thì họ dùng cả tay và chân, môn đánh boxer này rất phổ cập tại Thái Lan, người Thái Lan họ rất say mê, và những người gọi là Thái boxing giỏi thì họ có thể là một người rất nổi tiếng được trọng vọng. Vị sư này trong lúc còn cư sĩ là một người đánh boxer rất nổi tiếng, đi xuất gia mặc dầu bỏ vợ bỏ con bỏ sự nghiệp tuy vậy vẫn còn mang theo một ít tấm hình lúc mình có những cú đánh rất đẹp và tấm hình lúc mình nhận được giải thưởng hạng nhất khi lên võ đài. Đi xuất gia mà vẫn còn đem theo như một chút hoài niệm về quá khứ vinh quang của mình. Đến khi Ngài Ajahn Mun nhắc chuyện đó thì vị này mới bật ngửa ra, mới thấy rằng mặc dầu có những lúc thỉnh thoảng mình đem ra xem tấm hình đó mình nghĩ nó là vô hại nhưng chính những thứ đó lại làm sống dạy một cái gì thuộc về quá khứ, cái đó thật sự không có lợi cho sự tu tập, và vị này đã đem đốt những tấm hình này. Chúng tôi đã gặp vị này khi chúng tôi sang Thái Lan thì vị đó kể cho chúng tôi nghe rằng lúc đó vị đó mới tìm thấy một sự lắng đọng hoàn toàn để phát triển thiền định.
Nguyên nhân để phiền não sanh khởi đến từ nhiều thứ, nó đến từ chỗ thân cận, từ chỗ ở, từ một sự vướng vấp gì đó trong quá khứ của mình, về điểm này thì chúng ta nên biết và giải quyết chữa trị nó hơn là có một thái độ dằn co mạnh mẽ với chính bản thân của mình.
Ở trong chữ thiện mà đạo Phật đề cập đến nó có ý nghĩa là khéo, nghĩa là làm sao cho đúng chỗ, đúng cách, và cái khéo này đặc biệt giúp cho chúng ta vượt khỏi ý niệm rất cứng ngắc của chúng ta trong việc tu tập, nghĩa là phải làm thế này không làm thế kia, và cách đối với mình như là một sự ra mệnh lệnh hoàn toàn không có lợi nhiều ở trong thiền định. Dĩ nhiên ở trong rất nhiều trường hợp chúng ta cần có một thái độ mạnh mẽ đối với chính mình, nhưng phần lớn những thì giờ còn lại của cuộc sống tu tập đòi hỏi chúng ta có cái khéo, đặt nỗ lực đúng chỗ, đặt định tâm đúng chỗ, đặt chánh niệm đúng chỗ thì từ chỗ đó mới có khả năng để tạo thành sức mạnh của mình. Một người có niềm tin nhiều cũng chưa chắc là người đó họ có thể có nhiều thành tựu lớn, một người tinh tấn nhiều chưa chắc là thành tựu lớn. Chúng ta được nghe câu chuyện tôn giả Ananda, Ngài nỗ lực tu tập mà quá nhiều sự tinh tấn, sự tinh tấn đó khiến Ngài không thể đi xa hơn được cho đến lúc Ngài quyết định đi nghỉ và Ngài nằm nghiêng mình xuống thì Ngài lấy lại được sự thăng bằng và trong sự lấy thăng bằng Ngài thành tựu được đạo qủa.
Thì tương tự như vậy sự hành trình đòi hỏi chúng ta có một sự quân bình hết sức là đáng kể, thái độ quân bình này như là trong giao tế hàng ngày mà chúng ta không thể quá nặng ai hay quá nhẹ ai, bên nào quá khinh bên nào quá trọng, và chúng ta phải có thái độ vừa phải với chính mình.
Nên chi câu Phật ngôn mà đạo hữu hỏi thì là một câu chúng tôi nghĩ rằng về phương diện pháp hành dễ nói hơn là phương diện thường thức ở bên ngoài, phương diện thường thức ở bên ngoài thì chúng ta có thể có nhiều cách suy tư, ở đây chúng tôi chỉ cố gắng để chia xẻ một quan niệm liên quan đến pháp hành, pháp hành thì đòi hỏi cái gì cụ thể và khi chúng ta ngồi xuống để làm việc cụ thể thì chúng ta thấy ý nghĩa của câu này hết sức rõ ràng 

Monday, May 27, 2013

Nên tu pháp môn nào?

Hỏi ; Phật tử căn cơ nào thì nên tu theo Tịnh Độ Tông, căn cơ nào nên tu theo Mật Tông, và căn cơ nào nên tu theo Thiền Tông, thưa Sư.

(Câu hỏi trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng giảng:  Thật ra chúng tôi rất ngại về điểm này, khi chúng tôi trình bày về câu hỏi chúng tôi sợ qúi vị ở trong room có thể cảm thấy mích lòng khi chúng tôi nêu lên một vấn đề.
Chúng tôi muốn hiểu chữ Tịnh Độ Tông , chữ Mật Tông, chữ Thiền Tông trong ý nghĩa dản dị hơn để chúng ta có thể nói chuyện với nhau ở đây. Ví dụ chúng ta nói Tịnh Độ Tông chuyên trì danh hiệu Phật, chúng ta nói đến Mật Tông là chúng ta tập trung vào sự luyện định lực và thiền Tông thì chúng ta nói đến tuệ lực.  Thật ra thì cả ba điều đó nếu chúng ta hiểu theo tinh thần đại loại như vậy, thì bất cứ một hành giả tu thiền nào đều cần đến cả ba điều đó, bởi vì chúng ta biết sự quân bình của năm căn.  Năm căn là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì những sự niệm Phật hay là suy niệm ân đức Tam Bảo là cáì gì rất có lợi cho chúng ta.  
Nếu nói về sự chuyên trì đạt đến định lực cao, mà chúng ta thường thấy như một trong tinh hoa của Mật Tông, thì cái đó cũng nằm trong định căn, và Thiền Tông được hiểu rất gần với tuệ căn.  Thì năm căn đó, đối với cái nhìn của các vị Thiền Sư là điều phải có ở trong đời sống của chúng ta, có tín, có tấn, có niệm, có định, có huệ.
Sở dĩ chúng tôi sợ quí vị cảm thấy phiền là chúng tôi không có ý gom cả ba phương pháp đó vào, bởi vì mỗi phương pháp nó đã phát triển trở thành cái bộ phận,  bộ phận hết sức lớn ở trong bối cảnh toàn diện của Phật Giáo.
 Mật Tông ngày hôm nay đã là một Tông phái lớn, chiếm một địa vị rộng ở trong chung quanh chân núi Hy Mã Lạp Sơn và luôn cả Mông Cổ, và cũng được thực hành ở tại nhiều quốc gia nhưng có tiếng nhất đó là Tây Tạng. 
Tịnh Độ Tông, được xem như là một tông phái có mức độ quần chúng đông nhất tại Trung Hoa và nhật bản.
Thiền Tông cũng có con số bàn bạc đâu đó.
Chúng ta không nói về địa dư, không nói về số lượng, mà chúng ta phải nói ở tại đây rằng sự hành trì đặt biệt của Tịnh Độ Tông đó là khả năng nhất tâm niệm Phật, là cái trì niệm ân đức của Phật, và dĩ nhiên trong truyền thống Tịnh Độ trì niệm ân đức của Đức Vô Lượng Thọ Phật, tức là Đức A Di Đà. Rồi Mật Tông thì có thể chuyên trì thần chú, ấn quyết và một số các phương pháp để nhập thiền. Rồi Thiền Tông được xem như là khả năng đốn phá tất cả để đạt đến tình trạng gọi là kiến tánh thành Phật, thấy được chân tướng của vạn pháp để mà giác ngộ thành Phật.
Trong cái nhìn đại loại mà chúng ta đem yếu nghĩa chung chung, thì chúng tôi tin rằng cả ba điều đó đều rất cần cho một vị hành giả để làm quân bình năm căn của mình, và dĩ nhiên là phương pháp thực hành nó lại có những dị biệt từ cá nhân này đến cá nhân khác.
Nhưng mà chúng tôi phải thưa với qúi Phật tử là hiện nay ở tại các đại học đường Âu Mỹ, người ta đã bắt đầu nói đến cái lằn ranh giữa các môn học, như là người ta nói đây là xã hội học, đây là nhân chủng học, đây là tâm lý học, nhưng mà rồi những ngành đó đều có quan hệ mật thiết với nhau.  Như chúng ta nói về xã hội học thì chúng ta không thể thiếu về tâm lý học, hay chúng ta không thể nói tâm lý học nằm ngoài cái nhân chủng học và xã hội học được.
Sự liên đới với nhau càng rõ ràng, nên trở lại các tông phái trong đạo Phật thì nên đôi lúc chúng ta cũng cố ý để vẽ một lằn ranh cho nó rõ ràng giữa phái này và phái kia, giữa cách hành trì này và cách hành trì khác.  Nhưng với các vị hành thiền, chúng tôi phải nói rằng ngay cả Tổ Ấn Quang là một trong những vị được xem là khuôn mặt lớn của Tịnh Độ Tông, thì Tổ Ấn Quang vẫn có nhiều cái nhìn, cái nghiên cứu về kinh điển cũng giống như hành trì của Thiền Tông, chứ không hẳn chỉ là về Tịnh Độ Tông không.
  Do vậy chúng tôi biết là câu trả lời này, không có thể nào thoả mãn cho câu hỏi của Phật tử, là Phật tử nào, căn cơ nào tu tập Mật Tông, rồi Tịnh Độ Tông, rồi Thiền Tông.  Chúng tôi chỉ trả lời trong cái nhìn của chúng tôi, thì nếu lấy cái tinh hoa của ba sự hành trì đó thì đều rất cần để quân bình năm căn cho bất cứ hành giả tu tập nào, và dĩ nhiên điều này có thể không trả lời trực tiếp cho câu hỏi, và chúng tôi không muốn làm một công việc tách biệt ba cách hành trì đó, do đó chúng tôi không đưa ra ba trường hợp biệt lập.
Dù sao thì phải nói rằng:
- Tịnh Độ Tông là một tông phái rất hợp với những người nặng về đức tin.
- Mật Tông thì rất tốt cho những người có sở trường về tâm định.
- Thiền Tông thì rất tốt cho những người mạnh về tuệ căn.  

Nhưng mà nói về sự quân bình thi` chúng ta cần cả ba, và dĩ nhiên Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông mà chúng tôi nói ở đây là chúng tôi nói cái tinh hoa, chứ chúng tôi không nói đi vào chi tiết như là các tông phái đó.  Đó là điều mà chúng tôi chia sẻ . 

Nam Mô Bỗn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Sunday, May 26, 2013

đôi lúc mình có làm cho mọi người vừa lòng hết không?

Hỏi : đôi lúc mình có làm cho mọi người vừa lòng hết không? và đôi khi mình thương nhiều là mình khổ.

. (Câu hỏi trong lớp Diệu Pháp - Kinh Pháp Cú, Minh Hạnh chuyển biên )

TT Giác Đẳng trả lời: Chúng ta được nghe một câu kệ trong kinh Pháp Cú  nói về thái độ của Đức Phật, ở trong thái độ này Đức Phật đã nêu ra rất rõ ràng rằng làm công việc giáo dục hay làm công việc của một người có lòng với cuộc đời để đem ánh sáng trí tuệ của mình chia sẻ với cuộc đời thì cũng có kẻ thương và có người ghét, và việc đó rất đương nhiên. Trong cái thương cái ghét đó chúng ta có thể cảm nhận được là nếu chúng ta đã lựa chọn thì chúng ta phải chấp nhận. Cái gì nó cũng phải có cái giá của nó. Và nếu chúng ta không làm gì hết thì cũng có người thương kẻ ghét chứ không phải khi chúng ta làm việc này hay việc kia thì mới có người ghét kẻ thương chúng ta. Do vậy bậc thiện trí ở trong đời sẽ không để mình bận tâm nhiều đến những việc đó, điều mình đáng bận tâm là những gì mà chúng ta làm thật sự có lợi ích, thật sự nó có ý nghĩa hay không. Những lời dạy của Đức Phật đó từ ngàn xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn giống như vậy không có gì thay đổi.

Thì đối với một người đem Phật pháp vào trong cuộc đời, thì có một điểm rất tế nhị của mỗi chúng ta là: Người Phật tử có đôi lúc có thể nói rằng tâm tư của người Phật tử không có thái độ hết sức tích cực ở trong việc phổ biến Phật pháp ra bên ngoài. Có một số người thì quá tích cực, tích cực đến đỗi mà họ nghĩ cái gì mình tin phải là đúng, và cái gì mình tin rồi đem áp đặt lên người khác. Cả hai đều là cực đoan hết. Chúng ta không nên nghĩ rằng cái gì mình gọi là đúng mình phải áp đặt lên cho người khác và bắt người khác làm theo mình, nhưng chúng ta cũng không nên hờ hững trong việc giảng giải chánh pháp, bởi vì chúng ta hãy xem việc đem Phật pháp đến người khác như là một sự chia sẻ. Gọi là chia sẻ có nghĩa là cái gì mình có, và cái gì mình nghĩ rằng hay, mình nghĩ rằng tốt đẹp, cái gì mình nghĩ là lợi ích, thì mình hãy ban tặng cho người khác. Và trong sự cống hiến đó nếu được đón nhận thì tốt mà nếu không được đón nhận thì cũng không lấy đó mà làm buồn, bởi vì như tinh thần của câu Phật ngôn này không phải ai cũng có thể đón nhận điều thiện bằng một tâm tư sẵn sàng và điều đó là điều chúng ta phải chấp nhận.

Dĩ nhiên là trong trường hợp có một câu hỏi đưa ra: "đôi lúc mình có làm cho mọi người vừa lòng hết không." Thì thật sự không có chuyện gì ở trong cuộc đời này mình có thể làm cho tất cả mọi người vừa lòng hết, chúng ta hãy vui mà thấy rằng ở trong cuộc sống này chúng ta có làm được những việc có ý nghĩa, những việc mà chúng ta nghĩ là tốt, nhưng đừng bao giờ vui mà nghĩ rằng mình đang được tất cả mọi người thương mến, thật ra thì sự thương mến dành cho chúng ta thì chỉ có một số nào đó mà thôi, có những người họ có thiện cảm với chúng ta họ không nói thì chúng ta cũng không biết được. Nhưng chắc chắn một điều rằng trên đời này không có người bị chê, ở trên đời này có một người mà ai cũng thương hết là không có. Nói như cụ Nguyễn Hiến Lê là "trên đời không có thứ quái vật đó." Thứ quái vật đó nghĩa là ở trên đời không có ai mà được tất cả mọi người bằng lòng hết, nên cái chuyện làm bằng lòng hết cả mọi người thì nó không phải cái mục đích của chúng ta. Nên thưa qúi vị chúng ta nên lấy một tâm hồn rất dung hoà, nghĩa là chấp nhận một cách tương đối đời sống. Nếu ở trong cuộc sống của mình mà trong 10 người mình thân cận chỉ có 5 người thương mình thì kể ra cũng may mắn rồi, ở trong 5 người thương mình mà có được ba người cùng chia sẻ công việc với mình cũng là may mắn, trong 3 người chia sẻ công việc mà có được một người hiểu thì cũng đã là một việc may mắn rồi.

Nên chi đối với một người tu học thì những câu Phật ngôn này không phải chỉ là một sự khích lệ nhưng cũng nhắc nhở cho chúng ta về một thực trạng của đời sống, cuộc sống là bất toàn và cuộc sống nó vốn là có phần này và phần kia, có cái được và cái không được. Và với cái được và cái không được thì người trí sẽ chọn thái độ là sống với những gì mình tin rằng lợi ích tốt đẹp nhất, cái gì mà mình có thể cống hiến cho cuộc đời này mà trong giá trị chúng ta thật sự tin chắc vào đó.

Thật ra trong câu Phật ngôn 77 này về phương diện văn từ thì không có chữ nào mà chúng ta phải quá đi sâu vào, ở đây thì chỉ có một điều duy nhất là có hai câu:
satam. hi so piyo hoti,
asata.m hoti appiyo.
satam. hi so piyo hoti, Là đối với người tốt thì vị này là vị được hài lòng.
asata.m hoti appiyo là đối với những người không tốt thì những người này không bằng lòng.
Điều này có thể nói là một câu mà đôi khi chúng ta nên đọc nó như là một thần chú, để chêm công việc thiện mà mình làm được chấp nhận hay không chấp nhận. Nên nói tóm lại là thưa qúi Phật tử những câu kinh Pháp Cú này cho chúng ta thấy rằng ngay cả chính Đức Phật là một bậc Thiên nhân chi đạo Sư, là một bậc gọi là đại phúc đại trí ở trong cuộc đời này nhưng mà không phải ai cũng thương Ngài, có những người không những là bất đồng với Ngài mà còn chống báng Ngài một cách mạnh mẽ. Chúng ta đi vào trong cuộc đời này khi sống phụng sự làm việc thì chúng ta chỉ có thể nương vào cái mà chúng ta nghĩ rằng ở đó là cái gì tốt nhất mà mình có thể làm được, chứ không phải là cái gì mà cuộc đời hài lòng nhất về bản thân của mình, cái số đông người hài lòng đôi lúc nó chỉ là một số đông quần chúng đang su hướng theo một trào lưu một khuynh hướng gì đó, chứ không nói lên một giá trị thật sự nào, và chúng ta phải rất là can đảm để sống chung thành với những gì mà mình nghĩ rằng thật sự là lợi lạc.

Có một câu hỏi  "đôi khi mình thương nhiều là mình khổ."
Đúng vậy, cuộc sống này nếu chúng ta thương người khác mà trong cái thương có dính mắc thì chúng ta thật sự là khổ, nhưng nếu chúng ta thương bằng tâm đại bi, nếu chúng ta thương bằng lòng từ, thì chúng ta sẽ không khổ nhiều như vậy. Thật ra thương cuộc đời có nhiều cách thương, chúng tôi lấy một ví dụ qúi vị có thể đi ở trên đường gặp một người khổ và quí vị có thể cho người đó rất nhiều thứ, cho người đó một ít tiền để giúp đỡ người đó nhưng không có nghĩa là qúi vị sẽ khổ về người đó là vì sự giúp đỡ đó của qúi vị nó không vương hệ lụy, mà qúi vị chỉ có thể thấy rằng cái gì mà qúi vị đã cho người đó sẽ mang đến cho người đó một chút niềm vui, ít nhất là nhất thời thì như vậy là đủ rồi.

Thật ra lòng từ hay là tâm thương xót chúng sanh của Chư Phật của những vị Bồ Tát của những vị có tâm rộng lớn trong cuộc đời thì các Ngài có thương nhưng không hệ lụy, các Ngài có đến có đi, có cầm lên có đặt xuống, chứ không có núm níu không bị kẹt vào trong đó, do vậy các Ngài không khổ như chúng ta. Tình cảm là thứ gì rất là phức tạp của kiếp người, nó phức tạp đến đỗi mà có thể nói rằng chúng ta phải sống cả cuộc đời để chúng ta có thể hiểu được một ít nét căn bản về cuộc đời.

Saturday, May 25, 2013

Từ "biến tri" có khác với "thắng tri" không?

Hỏi: Từ "biến tri" có khác với "thắng tri" không? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 25-3-2013, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng trả lời: Từ biến tri và thắng tri có tính cách khác biệt. Chữ biến tri mang tánh cách chiều rộng, chữ thắng tri mang tánh cách chiều sâu. 

Chúng ta lấy ví dụ như là chữ biến tri là mình hiểu tương đối là hiểu đủ rộng đủ tường tận như một vị tướng ra trận thì phải thông hiểu địa hình, địa vật, địa thế của mặt trận đó như thế nào, nếu không hiểu địa hình, địa vật, thì thật sự là khó điều quân khiển tướng.

Nhưng, thắng tri thì nó mang tánh cách là xuyên xúc. Chúng ta tạm lấy một ví dụ như trong binh pháp người ta nói là có hai phần là chiến lượt và chiến thuật. Chiến lượt như là mình hiểu biết về nó mang tánh cách là biến tri, còn chiến thuật thì giống như là thắng tri. Giả xử như một vị hành giả nhìn thấy được một điểm hay một đối tượng mà qua cái đối tượng đó vị đó nhìn một cách thấu triệt xuyên xúc thì cái xuyên xúc đó chúng ta gọi là thắng tri nhưng riêng về hai pháp ở đây chúng ta gọi là danh và sắc ở đây mang tánh cách chiều rộng mang tánh cách toàn diện khi mình hiểu về sáu căn, hiểu về năm uẩn, hiểu về danh sắc, hiểu về 12 xứ 18 giới v.v... thì nó có tính toàn diện và tính toàn diện này nó quan trọng.  

Ngày hôm nay thì chúng ta thấy ở trong ngành quản trị luôn luôn có phần chiều rộng và chiều sâu, ví dụ như về chiều sâu có thể là có một số kỹ thuật nào đó mà một công ty có được thì công ty đó giàu thêm nhưng nó cũng mang tính chiều rộng tức là đặc biệt người ta biết là về tiếp thị như thế nào, người ta biết nhu cầu của thị trường ra sao, người ta biết tìm vốn ở đâu, rồi người ta biết cái chuyện là thuế má như thế nào, nó có tánh cách chiều rộng. Thì cái chiều rộng đó chúng ta nói đến biến tri nhưng cái nhìn xuyên xúc trên một đối tượng trên một pháp thì điều đó chúng ta gọi là thắng tri, thì hai phạm trù rất khác biệt ./.

Friday, May 24, 2013

làm thế nào để tuổi càng lớn cuộc tu càng dài và ở cuối quãng đường đó với cái nhìn về chính mình, mình cảm thấy nhẹ nhàng


Hỏi:  ở trong một cuộc sống chúng ta làm thế nào để tuổi càng lớn cuộc tu càng dài và ở cuối quãng đường đó với cái nhìn về chính mình, mình cảm thấy nhẹ nhàng, cảm thấy thênh thang hơn là cảm thấy nặng nề, cảm thấy bị đóng trụ, đóng cột , bị ram rịt với những quan niệm về ngã chấp, với những cái quan niệm về mình là ai, tại sao mình phải được đối xử thế này , mình phải được tôn trọng như thế kia.  

(Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tuệ Siêu trả lời :  Đây là vấn đề lớn và rất thực dụng trong đời sống tu tập. Thực ra thì bản thân của chúng tôi cũng gặp nhiều cạm bẫy hết sức lớn lao như vậy và cũng khó khăn lắm, nhưng ở đây, nói chung chung nếu chúng ta là ngừơi trí và là một vị tu tập theo hạnh nguyện của một vị Bồ Tát với sự mong cầu giải thoát khỏi luân hồi trong tương lai thì trong trừơng hợp này không phải là vấn đề nan giải khi chúng ta gặp cái danh và cái lợi hay là quyền chức nó đến, khó thì cũng không khó nhưng dể cũng không phải là dễ, chỉ có điều là chúng ta có được bản lãnh trong sự tu tập hay không thì điều đó chúng ta mới cần sét lại. Chúng tôi chỉ có gợi ý một điều kinh nghiệm về bản thân của chúng tôi khi làm việc Phật Pháp, những lúc chúng tôi đứng lớp dạy, chúng tôi cũng thừa nhận một điều là khi đứng lớp dạy cho Chư Tăng hay là lên pháp toà để thuyết pháp cho Phật tử hoặc là chúng tôi ngồi soạn kinh sách những lúc đó cả Chư Tăng và Phật tử những người họ có sự quí kính sự ái mộ có sự tán dương được khen ngợi thì bản thân của chúng tôi cũng rộn lên một sự hân hoan như là một sự bù đắp cho cái nỗi mệt nhọc.

         Thành thật mà nói thì tâm phàm chúng ta mà, những lúc đó chúng tôi cũng có một cái gì đó khởi lên  niệm tự hào, nếu nói một cách chính xác tức là cái tâm ngã mạn cũng có chứ không phải là không có, và những lúc chúng tôi gặp phải những trở ngại như bị ngừơi khác chê hoặc là những công việc thất bại chúng tôi cũng cảm thấy đau khổ cũng có một  cái gì đó tụ ái, điều này thì không thế nào thoát được, nhưng mà ở đây, có một điểu chúng tôi cũng xin đựơc san  sẻ với quí vị là sau đó thì chúng tôi lại thể hiện đựơc cách sống của riêng mình.

          Câu hỏi là làm như thế nào để cho chúng ta càng tu càng về già chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng và không có nặng nề bởi trách nhiệm hay những danh lợi nó đi đến, quả thật như vậy nếu chúng ta không khéo thì chúng ta càng cao danh vọng càng dày gian nan, và những lúc chúng ta càng có quyền chức thì chúng ta càng cảm thấy sợ hãi, hốt hoảng sợ khi mà quyền chức bị mất đi , vượt khỏi tầm tay thì lúc bấy giờ mình sẽ phải như thế nào , sẽ đau khổ lắm, nhìn mặt thiên hạ mình cũng khó nhìn. 

Thì ở đây, trong trường hợp đó chúng tôi lại có cảm nghĩ khác, thì thôi bây giờ đang trong lúc thực hành những trách nhiệm , những phận sự để san sẻ lợi lạc cho chúng sanh lúc bấy giờ chúng ta nghĩ ngược lại rằng :không cần, không cần biết là còn hay mất lợi danh, ngừơi ta còn ái mộ mình hay không còn ái mộ mình mà chỉ biết một điều rằng mình đang đào tạo trí tuệ Ba La Mật một tri kiến để trong tương lai mình sẽ thành tựu được quả vị A La Hán với trí tuệ phân tích.  Chúng tôi có cái tâm nguyện như vậy, cho nên những lúc soạn kinh sách chúng tôi không cần biết là cuốn sách này soạn ra ngừơi ta có tán thành hay không, ngừơi ta có hưởng ứng hay không, mình có phát hành những cuốn sách này nhiều hay không chúng tôi lại không nghĩ như vậy, chúng tôi chỉ nghĩ rằng trong lúc đầu tư trí tuệ và thời gian để nghiên cứu và chúng tôi viết hay là chúng tôi dịch ra những cuốn sách thì chúng tôi nghĩ rằng những lúc đó thì chúng tôi đang đào tạo cái trí tuệ Ba La Mật.

        Khi chúng tôi làm đựơc những công đức các phước báu đó, thí dụ như vừa dạy cho Chư Tăng mà trong khi đó chúng tôi phải đi hoằng pháp chỗ này chỗ kia để tìm kiếm để có được phát sanh những lợi lộc đem về cung cấp nuôi dưỡng cho Chư Tăng, để cho Chư Tăng khỏi bận rộn trong việc nuôi sống , chúng tôi hy sinh cái điều đó chúng tôi không nghĩ rằng Chư Tăng sẽ khen thưởng hay là sẽ đáp lại bằng một cái gì khác, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đang tạo, đang củng cố thiện nghiệp Ba La Mật của mình chúng tôi nghĩ như vậy thôi. Qủa thật vậy, khi chúng tôi đã có một tiêu chuẩn như thế đó rồi thì từ đó về sau chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng, nghĩa là mổi khi có danh có lợi mổi khi có được người ta áp đặc cho mình vào một cái quyền thế một cái cương vị nào đó thì tự nhiên chúng tôi cảm thấy cái này không phải nhằm mục đích của mình, do vây cho nên chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng, và đó chỉ là kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thôi. 

Thì ở đây, mỗi chúng ta đều có thể tự tạo cho mình một sắc thái một tư tưởng tu tập để tự mình làm cho mình nhẹ nhàng , thì trong trường hợp đó chúng tôi chỉ xin có một vài ý kiến nho nhỏ thiển cận để góp ý trong cái câu hỏi này.

Thursday, May 23, 2013

Tại sao có những phiền não được chấm dứt nhưng vẫn có khã năng sanh khởi trong tương lai?


Hỏi: Tại sao có những phiền não được chấm dứt nhưng vẫn có khã năng sanh khởi trong tương lai?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 2-9-2012, Minh Hạnh chuyển biên )

TT Giác Đẳng trả l i- Một câu hỏi mà chúng ta có thể nêu ra tại đây là trong cuộc sống có một số phiền não có thể sanh khởi và phiền não đó có thể tái phát hoặc giả là phiền não đó có thể diệt hẳn đi.

 Chúng tôi lấy một ví dụ là, giả xử mình mất một món đồ và nghi ngờ ông A bà B lấy, rồi bất chợt chúng ta tìm thấy được là mình đã bỏ quên trong cái tủ và mình đã khóa tủ đó lại rồi mình quên bây giờ lấy ra thì tự nhiên sự ngờ vực của chúng ta đối với người ông A bà B kia hoàn toàn tiêu mất, tại vì bây giờ chúng ta có trạng thái là biết đích xác món đồ này mình đã bỏ quên trong tủ và mình đã khóa lại, không ai bỏ vào tủ ngoài chính mình, và mình biết mình đã quên đi, thì khi mình biết như vậy chắc chắn rằng sự nghi ngờ sự nghĩ ngợi về người khác tan mất, bởi vì chúng ta biết và biết chắc.

Như vậy, trong cuộc sống của chúng ta có nhiều điểm chúng ta biết không chắc, biết không rõ, biết không tới, do đó chúng ta vẫn tiếp tục. 

Chúng tôi lấy một ví dụ khác là, hồi còn nhỏ nếu một lần mà chúng ta đút tay vào lửa rồi bị phỏng, thì cái chuyện lửa phỏng tay là do chúng ta đút tay vào lửa thì chúng ta không nghi ngờ gì là để tay vào lửa là phỏng, thì từ đó về sau chúng ta không thích chuyện đưa tay vào lửa. Nhưng mà, với điều kiện là chúng ta phải biết chắc chắn là phỏng tay. 

Và hầu hết những cái đau cũ chúng ta có trong đời sống là do chúng ta bám víu vào đau khổ đó, chúng ta mơ hồ nghĩ rằng những điều đó không mang lại cho chúng ta hạnh phúc thật sự nhưng mà nói chỉ là cho có nói mà thôi. Lấy ví dụ là, chúng ta có thể nói với nhau là đời sống mà mình có nhiều thứ thì mình càng khổ nhiều nhưng mà rồi chúng ta vẫn lao đầu vào đó và chúng ta vẫn chất chứa nhiều thì như vậy câu nói của chúng ta mặc dầu nói trên phương diện lý lẽ nhưng nó không thật sự là có một cái sự rõ ràng trong sáng ở trong lòng của chúng ta.

 Một đặc điểm mà chúng ta thấy ở trong kinh điển của Đạo Phật, chúng ta có thể hình dung như vầy là khi Đức Phật dạy rằng sắc uẩn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là vô thường. Nhiều lúc một người tu tập hành giả phải đặt vấn đề rằng chúng ta có thấy được năm uẩn là vô thường không? chúng ta thấy sự sanh sự diệt của nó hay không? 

 Ví dụ, trên phương diện sắc thân, phương diện sắc uẩn, hay trên phương diện cảm thọ uẩn, trên phương diện ý tính kinh nghiệm chúng ta gọi là tưởng uẩn, trên hành xử thiện ác chẳng hạn, hay là các giác quan thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, thức uẩn, thì những thứ đó chúng ta phải tu tập thường như một hành giả tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới thấy tất cả những thứ đó đều thay đổi và có sanh có diệt, cái sanh diệt của nó rất là vô chừng chúng ta không ngừng nó lại được. 

 Và khi thấy sanh diệt thì một mấu chốt khác mà chúng ta phải thấy rằng cái gì vô thường thì có khổ không? 

 Nhưng chúng ta không thấy được bởi vì nó vô thường nên nó khổ, hai cái này khác với nhau. 

 Chúng ta khổ vì nó vô thường. Thí dụ như mình đang có cái đó rồi mất đi cái đó gọi là chúng ta bị khổ vì vô thường.

 Nhưng tuệ giác thì nhìn ngược lại thấy rằng cái gì vô thường thì nó khổ là bởi vì sao? 

Rõ ràng là tâm tư của chúng ta nó vốn là thường bám víu nó muốn có cái gì đứng lại dừng lại bây giờ một cái ly bị bể thì chúng ta cảm thấy buồn, một người thân mất đi chúng ta buồn, tuổi già đến tuổi trẻ đi qua chúng ta cảm thấy buồn, cái bối cảnh nào chúng ta quen thuộc bây giờ đến chỗ không quen thuộc nữa thì chúng ta buồn, thì một hành giả tu tập đến mức độ nào đó để tự cho mình xác nhận cái gì vô thường thì cái đó khổ. Nhưng mà chưa hết, chúng ta thấy cái đó là vô thường là khổ thì chúng ta còn thấy nó bởi vì nó vô thường bởi vì nó khổ cho nên không nên nói rằng đó là "Ta" đó là "Của Ta" đó là "Tự Ngã Của Ta".

 Bài học này không đơn giản, chúng ta không thấy được chuyện đó, do chúng ta không thấy được là không phải là "Ta" không phải "Của Ta" không phải là "Tự Ngã Của Ta" do vậy chúng ta rất mơ hồ về cuộc sống. 

 Ví dụ như mình có một người bạn rất thân mình tạm gọi là "Người Bạn Của Ta" , nhưng mà rồi, người bạn của mình bây giờ người đó lại thân thiết với người khác không thân với mình nữa mình khổ thì trong cái khổ đó mình hiểu là mình đã hiểu sai, bạn là bạn, chứ không thể nói là "Bạn Của Tôi" là "Tôi" là "Tự Ngã Của Tôi", thì những điều đó khiến cho chúng ta không chắc chắn và không chắc chắn như vậy làm cho phiền não tiếp tục sinh khởi.

 Thì ở đây, khi chúng ta hỏi rằng tại sao phiền não có nhiều khi nó được chấm dứt rồi nó không sinh khởi nữa, có những phiền não chấm dứt mà nó lập đi lập lại thì Đức Phật Ngài có cho chúng ta biết rằng những phiền não mà chúng ta gọi là bảy phiền não triền thùy hay là bảy phiền não tùy miên chúng ta thường gọi là phiền não ngủ ngầm , ngủ ngầm là nó không có mà nó tiềm ẩn mà nó có khả năng sanh khởi trong tương lai bởi vì tuệ giác của chúng ta chưa được thắp sáng rõ ràng, nó giống như cục đất mà chúng ta nhìn thấy không có cỏ nhưng chúng ta để một thời gian thì cỏ có thể mọc lên được. Thì vì vậy khi nào mà phiền não cứ lập đi lập lại mà chúng ta không tránh được thì chúng ta thử đem công án Đức Phật Ngài dạy trong kinh Vô Ngã Tướng:

 - Sắc uẩn, thọ uẩn,tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là thường hay là vô thường?

 Mình phải tự xác nhận với chính mình, có thấy rõ nó là vô thường hay không, rồi mình hiểu được là tại sao Đức Phật dạy cái gì vô thường là khổ, rồi mình phải hiểu thêm một chuyện nữa cái gì vô thường là khổ thì có nên nói rằng nó là "Của Ta" là "Ta" là "Tự ngã của ta" chăng? chúng ta phải nghiền ngẫm chuyện đó rất nhiều thì chúng ta mới thấy rằng quả thật cái biết cái hiểu của chúng ta về cuộc sống rất mơ hồ, mơ hồ đến nỗi có những sự việc rất là hiển nhiên nhưng chúng ta lại không thấy rõ được./.  

  

Wednesday, May 22, 2013

Phải chăng sanh vào cõi người thì dễ tu hơn các cảnh giới khác?


Hỏi: Phải chăng sanh vào cõi người thì dễ tu hơn các cảnh giới khác? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđhadhamma, ngày 14-5-2013, Minh Hạnh chuyển biên)

ĐĐ Pháp Tín giảng: Thật sự, sanh trong cõi người thì dễ cho chúng ta tu tập. Đối với cõi người chúng ta  có những người đau khổ, có những người hạnh phúc. Rồi ngay cả bản thân chúng ta cũng vậy, sự biến đổi không ngừng, như buổi sáng trời mát chúng ta cảm thấy người dễ chịu và có vẻ như rất yêu đời nhưng đến trưa trời nóng bức làm thân thể khó chịu, chúng ta rất là khổ. 

Vậy thì ở đây, chúng tôi muốn nói về điều này có nghĩa là, trong cuộc đời này chúng ta chưa có nhìn ra bên ngoài mà chỉ cần nhìn lại ngay trong cuộc sống của mình thì sự đau khổ, hạnh phúc, nó nhập nhằng qua lại diễn tiến liên tục.

 Thì thật sự người trí gặp cảnh khổ là suy niệm liền, thí dụ, những vị Bồ Tát ngày xưa các Ngài thấy đời sống của các Ngài có khi phải chịu ảnh hưởng của trời nóng có khi ảnh hưởng trời lạnh v.v... thì các Ngài đã muốn tu tập, hoặc rằng các Ngài thấy sự khổ gì đó mỏng manh nhỏ nhoi thôi các Ngài cũng bỏ vào rừng để tu tập.

  Đối với chúng ta cũng vậy, không phải người nào cũng chậm giác ngộ, có người chỉ cần nhìn thấy những người chung quanh khổ là muốn lập tâm để xuất gia. Do vậy, trong đời sống của cõi người, mình thấy những cảnh khổ cảnh vui cảnh buồn v.v... rất là nhiều cho nên chúng ta dễ lập tâm tu tập. Chỉ trừ những người theo ác tà kiến,những người theo ác kiến hoặc những người nghiệp lực của họ mạnh quá nên khó tu tập, và khi cơn bịnh xảy ra với người đó, sự chết tìm đến người đó thì người này cũng lập tâm muốn tu. 
  
  Đối với cõi người, tính đi tính lại từ ở trong tâm hoặc thể hiện ra hành động v.v... đều có ước muốn được đời sống tu tập còn đối với những cõi khác thì khó tu, thí dụ như loài bàng sanh, ngay cả những loài bàng sanh  thuộc về loại cao qúi mà còn khó tu. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một câu chuyện tiền thân của Đức Phật. Trong một kiếp Đức Bồ Tát của chúng ta là tiền thân của Đức Phật Gotama, Ngài là vị thanh niên do Ngài thấy đời sống của vị vua được hưởng rất nhiều dục lạc, nên chàng thanh niên này mới ganh tị với đức vua và chàng thanh niên này nghĩ rằng phải cố gắng bố thí, phải cố gắng phục vụ hầu hạ những bậc thôn trưởng những bậc trưởng lão trong làng để tạo phước trong đời sau được hưởng chức quyền được hưởng các dục lạc. Thì chàng thanh niên này do sự ganh tị đó mới lo tạo rất nhiều thiện pháp ở trong kiếp đó nhưng sau khi mạng chung rồi thì chàng thanh niên này sanh thành loài rồng chúa là do những công đức như bố thí hoặc giữ giới hoặc là phục vụ v.v... Khi sanh thành loài rồng Bồ Tát rất là buồn, trong  lúc buồn có những con rồng cái dùng thần lực của mình biến thành những cô gái rất xinh đẹp múa hát để khiêu gợi lòng dục của con rồng chúa, và rồng chúa cũng say mê những điệu múa hát của những cô gái và rồng chúa sanh tâm tham ái và tiếp tục đời sống thoải thích của loài rồng
  
  Thì ở đây chúng tôi câu chuyện này ý chúng tôi muốn trích từ chỗ nói về sự tham ái tục sanh chỗ nào thì thoải thích chỗ đó, khi mới sanh làm loài rồng thì buồn tủi vì những công đức do mình đam mê sự hưởng dục nên sanh làm loài rồng nhưng khi gặp những cảnh gợi tình thì lúc đó sự buồn chán đã qua đi và lúc đó tâm tham ái đã trổi lên và thoả thích ở trong cuộc sống đó.
  
  Tại đây, chúng tôi muốn nói lên rằng ở cõi người nhiều khi chúng ta ngăn chặn lại được còn đối với ở cõi rồng thì hễ mà nhạc lên hoặc những điệu múa hiện ra trước mắt mình thì lúc đó vị này sẽ mê đắm và chỉ sống suốt kiếp ở trong loài đó. Chúng tôi đề cập đến những chuyện này để nói rằng thường thường những chúng sanh trong cõi nhân loại này đôi lúc chúng ta cũng đam mê dục lạc nhưng có một lúc nào đó chúng ta sẽ dùng lý trí để tách rời đời sống dục lạc và chúng ta có thể tu tập thiền tịnh hoặc là chúng ta có một đời sống tu tập còn đối với những cõi bàng sanh thì sống theo bản năng sống theo cảm tính chìm trong dục lạc rất là lâu, chính vì vậy mà không có tu tập được.
  
  Điển hình hai điều này thì rõ ràng chúng ta so sánh ở trong cõi người thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng có lý trí. Thí dụ như bây giờ chúng ta thích ăn một món ăn ngon, chúng ta ăn hoài đến một lúc nào đó thì chúng ta cũng có một sự hiểu biết hoặc là chúng ta cũng có sanh lên một tâm nhàm chán nhưng thật sự ra là do con người mình có được sự hiểu biết nên đến một lúc nào đó chúng ta tách rời những dục lạc đó ra còn đối với những loài bàng sanh thì bản tính là như vậy rồi thì rất là khó để ngăn ngừa như đối với Bồ Tát của chúng ta Ngài là vị có rất là nhiều phước nhưng vẫn còn bị đắm chìm thì huống hồ chi những chúng sanh khác.
  
   Thì đây là hai sự khác biệt giữa một chúng sanh sống theo bản năng hoặc là sống theo bản tính còn đối với loài người của chúng ta đôi khi cũng vậy nhưng có một lúc nào đó thì trí tuệ xen vào thì chính chỗ này chúng ta thấy rõ ràng đời sống của chúng sanh ở cõi người có nhiều khả năng để tu tập hơn những chúng sanh ở cõi khác nó khác nhau là giữa bản năng giữa một người mà có trí tuệ có sự hiểu biết xen vào chính vì chỗ này mà chúng ta thấy rằng ở cõi người sẽ dễ tu hơn là đối với những chúng sanh ở cõi khác ./.  

Tuesday, May 21, 2013

Tri Bỉ, biết người bằng cách nào?


Hỏi: "Tri bỉ" là biết người. Có câu "dò sông dò biển dể dò, có ai lấy thước mà đo lòng người". Vậy có cách nào để biết được cá tánh, trình độ của người đối diện với mình hay trong một hội chúng? 

(Câu thảo luận lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, ngày 18-5-2013, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tuệ Siêu giảng: Khi chúng ta nói đến Puggalaparoparaññutā tức là "Tri Bỉ", tức là biết người. Biết người ở đây không phải là chúng ta đoán được tâm lý họ hay chúng ta biết người đó là người tốt hay là xấu, người đó chân thật hay giả dối, chúng ta khó biết được, giống như câu: "dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người" hay câu người ta nói rằng "họa hổ hoạ bì nan họa cốt, tri nhân tri bỉ bất tri tâm" tức là vẽ cọp vẽ da thì được chứ không vẽ được xương cọp cũng như biết người biết mặt không biết lòng, những câu đó đúng. 

Nhưng ở đây chữ "Tri Bỉ", Đức Phật Ngài dạy  có cách để chúng ta hiểu được người đó một cách cơ bản. Chúng ta hiểu được tánh tình người đó là người đó nóng nảy hay  người đó có tâm mát mẻ hoặc người đó có tâm xả ly hay người đó có tâm san thamchúng ta biết để đối phó. Còn như đối với Đức Phật thì Ngài biết được sở hành của chúng sanh Ngài gặp chúng sanh đó Ngài biết chúng sanh đó có khuynh hướng tham sân hoặc si như thế nào rồi người này có thể lãnh hội được pháp nào. Chẳng hạn như có 500 vị tỳ kheo đến viếng thăm Đức Phật để được nghe Ngài giáo huấn, rồi Đức Phật Ngài xét thấy 500 vị tỳ kheo này ở trong quá khứ đã từng tu tập trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Ca Diếp và họ thường xuyên quán niệm về tánh vô thường cho nên tâm họ đã sẵn sàng thì lúc bấy giờ Đức Phật Ngài mới thuyết bài kệ Pháp Cú:

 Sabbe sa'nkhaaraa aniccaa-ti yadaa pa~n~naaya passati
Atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiyaa

Khi với trí tuệ thấy rõ chư hành là vô thường,
 khi ấy sẽ yếm ly sự khổ đó là con đường đến thanh tịnh. 

Và 500 vị tỳ kheo này đắc A La Hán. Một thời gian sau có một nhóm 500 tỳ kheo khác đi đến yết kiến Đức Phật để nghe lời giáo huấn, Đức Phật Ngài xét thấy 500 vị tỳ kheo này trong thời quá khứ đã từng tu tập quán về khổ của pháp cho nên lúc bấy giờ Đức Phật Ngài qua một câu Phật ngôn khác

  Sabbe sa'nkhaaraa dukkhaa-ti yadaa pa~n~naaya passati 
 Atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiyaa.

 Nhờ trí tuệ quán chiếu, Thấy các hành khổ đau;
Thế là chán khổ đau, Ðây chính đường thanh tịnh

 Thì các vị tỳ kheo nghe xong chứng A La Hán. 

 Thì ở đây chúng ta phải hiểu rằng, gọi bậc Chân Nhân hay bậc Hiền Triết, hay là Tri Bỉ thì Đức Phật mới đúng là người Tri Bỉ, Ngài biết được người khác một cách rõ rằng như vậy, còn như đối với phàm phu chúng ta thì khó, tuy nhiên, ở đây có bốn vấn đề, chúng tôi nói tóm tắt bốn vấn đề này để qúi vị nghi nhớ.

 Làm cách nào để chúng ta có được pháp Tri Bỉ là biết người khác?
 Ở đây, trong một đoạn kinh Tương Ưng Đức Phật Ngài có dạy: 

 1. Muốn biết sự chân thật của một người là phải đi buôn một chuyến với người đó.
 2. Muốn biết tánh thủy chung của một người thì phải cùng với họ trải qua khổ nạn thì mới biết được.
 3. Muốn biết trí tuệ của một người thì phải cùng với họ qua một buổi đàm luận.
4. Muốn biết giới hạnh của một người thì phải sống chung với họ trong một thời gian và có sự khéo tác ý

  Khi thân cận với người nào đó mà muốn biết họ thì Đức Phật Ngài nhắc rằng phải luôn luôn có sự quan sát và khéo tác ý, tức là mình sống ở gần người ta mà mình không để ý không quan tâm gì thì dầu sống ở gần họ cả chục năm cũng không hiểu tâm ý họ được, cho nên, khi chúng ta ở gần họ và chúng ta muốn biết họ là người như thế nào thì chúng ta phải có sự khéo tác ý nhận thức cách làm của họ. Thí dụ như bây giờ chúng ta sống thân cận với một người bạn, khi mình vô sự mình có tiền đãi đằng mời mọc họ ăn uống thì họ đến đầy nhà nhưng đến chừng chúng ta sa cơ thất thế bây giờ chỉ có một người động viên thì như vậy chúng ta phải khéo tác ý phải biết suy nghĩ rằng đây là người bạn tốt bởi vì họ cùng ta trải qua cơn hoạn nạn, khi ta suy sụp họ không xem thường và họ luôn luôn ở bên cạnh động viên khích lệ tinh thần chứ không phải là vì miếng ăn miếng uống hay là vì tiền bạc như những người kia v.v.. thế là chúng ta có sự khéo tác ý và chúng ta mới biết được người đó ./.   

Monday, May 20, 2013

Nên sống với cá tánh của mình hay quên mình để sống trọn vẹn theo sự chỉ dạy của vị Thầy


Hỏi: hai trường hợp; một ngừơi sống chung thành với cá tánh của mình và một ngừơi quên đi chính mình để sống trọn vẹn với sự hướng dẫn trong kinh nghiệm giáo dục của vị thầy thì ở đây cái nào có lợi cho sự tu tập và tiến bộ của một Tăng sinh, một ngừơi đang theo đuổi con đường tu học?

(Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tu Siêu trả lời :   ở đây chúng tôi xin đuợc có ý kiến trong vấn đề này là tùy theo trừơng hợp nếu như đối với một ngừơi hay bắt chứơc và hay sống theo tính cách của ngừơi khác mà họ bỏ quên cái thật của bản thân họ, trong khi đó cái thật của bản thân họ là những điều tốt thì trong trừơng hợp đó với tư cách của một ngừơi hứơng dẫn một vị Thầy thì  lúc bấy giờ chúng ta sẽ khuyên họ hãy sống thật theo tính cách của mình đừng có màu mè và đừng có bắt chứơc ngừơi khác, sự bắt chước đó sẽ không đẹp. Có câu chuyện về nàng Tây Thi bên Trung Hoa có một sắc đẹp tuyệt trần đến nỗi khi nàng bị đau và nàng nhăn mặt những lúc nhăn mặt như vậy cũng là một vẻ đẹp, thế thì có một ngừơi phụ nữ ở lân cận cô ta có vẻ mặt và hình dáng rất thô xấu nhưng lại nghĩ rằng nàng Tây Thi nhăn mặt ai cũng khen đẹp, thì là cô ta cứ ra đường gặp ngừơi này người kia cô làm vẻ mặt thiểu não nhăn nhó và đã xấu lại càng xấu thêm nữa khiến cho mọi người họ xa lánh. Thì trong trừơng hợp này chúng ta thấy nếu như không phải có vẻ đẹp như nàng Tây Thi thì đừng có bắt chứơc nhăn mặt. Đối với những hạng người này thì cần phải khuyến khích họ cần phải nhắc họ hãy trở về với cái đẹp của bản thân mình,tức là cái cá tánh của mình bộc lộ như thế nào thì mình hãy làm như vậy đừng bắt chước ai cả đừng có phải luôn luôn bỏ thân mình, bỏ quên cái thật của chính mình. Cái thật ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh là nói đến những sở hành hay là những cá tính đẹp thì trong trường hợp đó là  một cách,

          Còn đối với những vị học trò nào chưa có đựơc cá tính đẹp và họ chưa biết phải làm cái gì cả thì trong trừơng hợp đó chúng tôi mới khuyến khích họ là nếu vậy thì bây giờ quí vị hãy nghe, quí vị hãy sống theo lời dạy của các vị Thầy để dần dần đi vào con đừơng tốt đẹp. Và ở đây, thật sự chúng ta cũng khó có thể trình bày một chiều trong ý nghĩa này, chúng ta phải trình bày đa diện mà trong cái trình bày đa diện đó thì cũng gặp một điều khó nữa là chúng ta khi mà đối mặt với một sự kiện một tình huống đang xảy ra, thì lúc bấy giờ Thầy dạy cho hội chúng có trí sẽ biết cách để nhận xét và để hướng dẫn chứ chúng ta  không thể trình bày theo những ý kiến hạn hẹp trong một bối cảnh mà chúng ta chỉ  đặt ra một nhất thiết như vậy,

           Và ở đây, trong vấn đề này thật ra thì chúng ta cũng còn phải nói theo hai cách nữa tức là nói theo phương diện tu và học, thì ở đây chúng ta phải nhận đình theo hai cách như thế này; nếu đặt trên phương diện một đệ tử đi đến nghe ông Thầy giảng dạy để mà học, thì trong trường hợp đó là vị đệ tử này phải luôn luôn nghe theo lời của Thầy, nghe theo sự hứơng dẫn của Thầy, Thầy trình bày Thầy giải thích những điều gì mà mình đã chấp nhận đó là vị Thầy mình học thì trong trừơng hợp đó mình phải nghe theo, chớ mình không nên có một định kiến hay thiên kiến tư kiến, người học trò đó nên nghe theo những gì Thầy dạy. Tất nhiên là những lời Thầy dạy luôn luôn phải dùng trí mà suy sét rồi mới thọ trì lời dạy đó. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ nói rằng trên phương diện pháp học thì trong trừơng hợp đó mình là một ngừơi còn dốt nát mình là một ngừơi còn cạn cợt thiếu hiểu biết, khi đã đến một vị Thầy để học hỏi thì vị Thầy đó dạy như thế nào thì mình phải làm theo như thế đó chứ nếu không thì chúng ta dở dở ương ương không làm ra chuyện gì cả.

            Giống như một anh chàng học đàn, khi đi đến học đàn mà anh ta đã biết chơi đàn một thời gian do tự mò mẫn thì lúc bấy giờ vị Thầy dạy đàn sẽ yêu cầu anh ta bỏ hết tất cả những gì mà anh ta biết để mà anh ta thực hành, anh ta làm lại từ đầu mới mẻ như vậy  thì nó sẽ tốt đẹp chớ không phải là một sự sửa chữa,sự sửa chữa đó khó, thì trường hợp một vị thiền sư trong tư cách của Ngài là một vị Thiền Sư và Ngài đang dạy thiền, trong lúc đang dạy thiền cho người đệ tử ngừoi học trò, thì ngừơi học trò  đó đang nghe lời Thầy dạy thì trong lúc bấy giờ họ bắt buộc phải bỏ đi tư kiến như vậy mới có sự tiến hóa đựơc .

         Còn thứ hai là, đặt trên phương diện pháp hành khi đã hiểu thấu một cách chánh xác rồi thì trong lúc thực hành, thì phải sống theo tự bản thân vươn lên tự bản thân quán niệm tu tập ,chớ không thể nào dựa trên lời của ông Thầy nhắc giống như nhắc tuồng, giống như một ngừơi học võ nghệ khi đến thì những khẩu quyết mà vị Sư phụ truyền dạy thì những khẩu quyết đó phải thuộc lòng phải nhớ, ông Thầy dạy như thế nào thì phải nhớ rõ như thế đó nhưng đến khi nội công đựơc thuần thục rồi thì lúc bấy giờ khi đối diện trứơc kẻ thù đang đánh mình, lúc bấy giờ do các sự nhạy bén do sự phản xạ tự nhiên không cần nhớ gì đến lời của Thầy dạy mà đã làm theo bản năng võ nghệ những cái thao tác mà mình thuần thục điêu luyện chớ không thể ngồi lại mà nhẩm thuộc lòng những khẩu quyết  ông Thầy đã dạy lúc đó thiên hạ đã đánh mình chết rồi.

           Cũng như thế đó, khi chúng ta đã lâm vào tình cảnh đang thực hành đang chiêm nghiệm pháp thì lúc bấy giờ phải tự mình nỗ lực phải tự mình phát huy và lúc đó không còn nghĩ đến lời Thầy dạy nhiều, khi ông Thầy trong quá trình tu chứng của Thầy thực hành pháp môn đó như vậy như vậy, nhưng khi mình là một ngừơi học trò đến học hỏi về giáo lý thì nghe theo ông Thầy, nhưng đến lúc mình thực hành gặp những hiện tượng những ứng chứng  mà phát sanh ra tự bản thân mình phải chỉ niệm  và phải tự giải quyết lấy trong trừơng hợp đó, không thể nào mà chúng ta bắt buộc ngừơi học trò đó phải theo những gì ông Thầy dạy. Ở đây, nếu chúng ta có hành thiền  qua thì chúng ta sẽ có kinh nghiệm trong điều đó  trong lúc chúng ta đang cố gắng để tập trung tư tưởng để hành thiền mà theo lời dạy của Thầy thì Thầy dạy như thế này phải niệm như thế này thế này, nhưng trong lúc đó cơ thể của mỗi ngừơi mổi khác tâm tính của mỗi ngừơi mỗi khác thì lúc đó nó sẽ đưa đến một tình trạng chúng ta phải  tự giải quyết lấy chứ không thì chúng ta sẽ bị trở ngại trong việc tu tập.

          Cho nên nói tóm lại là chúng ta tùy, nếu dạy thì chúng ta tùy theo hai đối tượng mà chúng ta dạy, có ngừơi thì phải dạy hãy sống thật với bản thân mình có ngừơi thì phải dạy họ luôn luôn phải nghe theo lời của Thầy, còn lối tu tập thì trên phương diện pháp học thì lúc bấy giờ là phải nghe theo Thầy, còn lúc khi pháp hành thì trong trường hợp đó là phải kinh nghiệm bản thân./.