Monday, January 26, 2015

Ba Con Mắt - Kinh Như Thị Thuyết

Ba Con Mắt - Kinh Như Thị Thuyết - bài 47

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 27-4-2014, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta nói về một giác quan so với những giác quan khác trong ngũ quan như thính giác là cái biết của tai, khứu giác là cái biết của mũi, vị giác là cái biết của lưỡi, và xúc giác là cái biết của thân, thì thị giác là cái biết của mắt chiếm một vai trò cực kỳ quan trọng. Con mắt cho chúng ta  một tầm nhìn rất xa thậm chí chúng ta có thể nhìn thấy những vì sao lấp lánh ở trên bầu trời cách chúng ta cả triệu năm ánh sáng, chúng ta cũng nhìn thấy chiều kích ngang và dọc theo trục tung và trục hoành. Và thậm chí chúng ta cũng được biết tới Three-dimensional tức không gian ba chiều, có chiều ngang chiều cao và chiều sâu, và người ta còn nói đến không gian bốn chiều. Nhưng đại để, con mắt cho chúng ta thấy nhiều chiều kích khác nhau của sự vật. Và trên phương diện truyền thông con mắt chúng ta giúp chúng ta rất nhiều. Nụ cười thân thiện hay một ánh mắt lo lắng hoặc vẻ mặt hiền hoà của người thân của mình tất cả điều đó được thể hiện bằng qua cái nhìn của chúng ta. 

Khi đề cập đến mắt, chúng ta thấy cuộc sống có những gắng bó sâu xa liên quan đến mắt của mình, liên quan đến cái gì mình thấy. Chúng tôi muốn nói trong thời gian qua tại chùa chúng tôi có nhờ Sư Chơn Thiện tạc pho tượng Ngài HT Hộ Giác. Ban đầu chúng tôi nghĩ tạc pho tượng này rất đơn giản, mình có khoảng chừng mấy mươi tấm hình chụp chiều thẳng, chiều ngang, và ở trên cao chụp xuống thì có thể tạc được pho tượng. Nhưng khi Sư Chơn Thiện bắt đầu tạc pho tượng chúng tôi mới nhận ra nó đòi hỏi vô số yêu cầu về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Lấy một ví dụ, hình của HT có hình lúc trẻ, có hình lúc già, có hình lúc khỏe mạnh, có hình lúc đau bịnh, có hình lúc Ngài trầm tư, có những hình lúc Ngài đang sinh hoạt bình thường. Khi đưa ra nhiều tấm hình để lựa chọn một trong những nét đó tạo thành một pho tượng của Ngài thì thật không đơn giản. Và lúc đó chúng tôi nhận ra một điểm là qua ấn tượng hình ảnh chúng ta thấy đi vào trong lòng, đi vào trong sự cảm nhận của chúng ta, thí dụ, khi Sư Chơn Thiện tạc tượng của Ngài Sư chưa bao giờ gặp Ngài, còn chúng tôi gặp Ngài ở trong rất nhiều trường hợp khác nhau và bây giờ bỏ ra một bức hình nào đó giống Ngài, lựa chọn một hình ảnh nào đó trong cả ngàn bức hình của Ngài rồi từ đó tạc lên pho tượng của Ngài thì lại là một yêu cầu không đơn giản. Chúng tôi lấy ví dụ, một hình ảnh trang nghiêm khác với hình ảnh gần gủi từ hòa, hình ảnh của Ngài lúc bệnh khác với hình ảnh lúc Ngài lúc trẻ khỏe mạnh. Nói một cách khác, quả thật ở trong sự nhận thức ở trong sự cảm nhận của chúng ta chỉ ghi nhớ một người rồi chọn ra một hình ảnh gọi đặc trưng gọi tiêu biểu thì hoàn toàn không đơn giản chút nào.

Thế giới chúng ta sống hàng ngày ở chung quanh muôn màu muôn sắc. Tuần lễ trước đây chúng tôi đi đến trại hướng đạo Phật tử Pháp Luân, các em cắm trại kỷ niệm chu niên, cũng  xa lộ đó những thảm hoa bluebonnet loài hoa dại vào mùa xuân của Texas, chúng tôi đã đi và nhìn thảm hoa đó nhiều lần nhưng hôm đó một ngày chúng tôi đi có nhiều công việc, đến đó rồi tất bậc trở về có thể nói rằng nó cho chúng tôi một cảm giác khác hơn nhiều lần trước. Ngày hôm nay khi chúng ta đọc trong kinh điển như kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật Ngài mô tả giây phút khi Ngài giác ngộ và lúc bấy giờ Ngài thấy Ngài biết Ngài hiểu nhân sanh tuệ sanh, thì đặc biệt cái biết do thấy nó trở thành một từ ngữ bắt nhịp giữa cái nhìn liên quan đến thị giác của chúng ta và liên quan đến tuệ giác. Cái thấy chúng ta được nói là một sự nhận diện ở trong một hình thức sơ khai nhất. Lấy ví dụ chúng ta gặp một người cao là như vậy, thấp là như vậy, màu da trắng là như vậy, màu da đen là như vậy, mặt trái xoan là như vậy, mặt chữ điền là như vậy, cái nhận dạng đó liên quan đến thấy và cái thấy đó cũng bao gồm thế giới rất trừu tượng là khả năng nhận dạng đó đầu óc chúng ta mới phân tích cái đó là cái gì, có vai trò như thế nào, nó cần đến sự mổ sẻ phân tích chi li, nhưng sự nhận dạng đầu tiên giúp cho chúng ta phân biệt được cái này khác cái kia, cái này tròn cái kia vuông, cái này nó có hình dạng như vầy v.v... 

Ngày hôm nay chúng ta học về ba con mắt, ba con mắt ở đây là một là nhục nhãn, hai là thiên nhãn, ba là huệ nhãn.

Nhục nhãn là mắt thịt, là con mắt chúng ta có. Thật ra mắt thịt của chúng ta dù ở một người bình thường nhất cũng là cơ phận rất độc đáo. Cơ phận đó cho chúng ta biết, cho chúng ta quan sát, cho chúng ta thấy. Khi chúng ta học về cơ phận của con mắt thấy rằng nó làm một việc hết sức lợi ích cho chúng ta là mở cánh cửa qua đó chúng ta thấy nhiều thế giới ở bên ngoài từ những đường nét kỷ hà học cho đến màu sắc cho đến tính cách của con người. Không có con mắt thịt chúng ta không thấy được đường đi lối về, chúng ta không nhìn thấy ánh mắt thương yêu của mẹ, chúng ta không nhìn thấy được những đóa hoa đẹp nở trong vườn, chúng ta cũng không cảm nhận được sự khác biệt giữa hoàng hôn và bình minh. Đôi mắt đó cho chúng ta thật nhiều nhưng nó cũng làm chúng ta hệ lụy thật nhiều, những cái chúng ta thích, những cái chúng ta yêu thương, những cái chúng ta thù ghét, thậm chí nói như cụ Nguyễn Du "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Có lúc nào đó người ta muốn nhắm mắt, người ta muốn quay mặt không muốn thấy những điều mình không muốn thấy, nhưng mà rồi mình cũng phải thấy. Và con mắt cũng có nhiều nhu cầu. Vì con mắt đó chúng ta bỏ công rất nhiều để sửa chữa nhà cửa chăm sóc khu vườn. Vì con mắt đó chúng ta hết lòng yêu thương người này và chúng ta hờ hững với người kia. Vì con mắt đó chúng ta bỏ ra bao nhiêu tiền để đi du lịch đến nơi có những cảnh đẹp cảnh lạ những cảnh hùng vĩ. Vì con mắt đó chúng ta có nhu cầu đòi hỏi về màu sắc, có người hợp màu vàng, có người hợp màu trắng, có người hợp màu đen. Vì con mắt đó chúng ta có rất nhiều y phục thời trang thay đổi hàng năm, loài người tốn hàng tỉ tỉ tiền bạc cho thời trang cho quần áo cho các vật trang sức. Nói chung thì cái gọi là nhục nhãn hay con mắt thịt cái mà nó rất tầm thường nhưng nó chi phối đời sống chúng ta rất lớn. Tất cả cái thấy và cái biết của mắt của chúng ta đều lệ thuộc vào một thứ đó là nhãn căn hay chính con mắt của mình. 

Đời sống bình thường chúng ta không thấy qúi nhưng khi lớn tuổi mắt mờ, mắt bị cườm phải đi chữa mắt ở bác sĩ chúng ta mới thấy con mắt đó hoạt động rất tinh vi chỉ một chút vấn đề nhỏ như bị cườm chẳng hạn thì chúng ta cần có một chuyên gia nào đó để trả chúng ta lại cái nhìn bình thường, hay khi mắt chúng ta bị cận thị hay viễn thị chẳng hạn cũng cần đến kính cũng cần đến giải phẩu tia laser. Nói chung, con mắt đó cần chúng ta chăm sóc tốt.

 Con mắt đó tuy rằng vi diệu, tuy rằng tinh vi, tuy rằng đặc biệt nhưng nó có những hạn chế nhất định. Chúng ta không thể nhìn thấy bóng đêm, chúng ta không thể nhìn thấy quá xa, chúng ta không thể nhìn thấy những vật quá nhỏ. Không có thời đại nào trong lịch sử loài người trước đây có những kỹ thuật cho phép chúng ta nhìn thật xa thật rõ thật li chi những điều chúng ta vốn không nhìn thấy được. Đến thế kỷ thứ 15, 16 khi con người bắt đầu biết dùng kính hiển vi thì chúng ta có thể nhìn thấy được những vật rất nhỏ mắt thường chúng ta không thấy được. Và thế kỷ 20 với những viễn vọng kính đưa ra ngoài thái không như   Hubble hay Chandra chúng ta có thể nhìn thấy những tinh cầu rất xa xôi những thiên hà (galaxy) trước kia con người thấy rất mờ nhạt hay không thấy được. Chúng ta nói đến những tập thể cách trái đất cả hàng triệu năm ánh sáng và trở thành một điều rất thú vị những cái nhìn được giúp đỡ bởi dụng cụ như viễn vọng kính hay kính hiển vi cho chúng ta thấy những vật thể cực xa hay cực nhỏ. Rồi chúng ta lại nói đến viễn vọng kính quang tuyến X có thể cho chúng ta thấy xuyên qua một vật hay một điều gì đó hay cho chúng ta thấy những hình ảnh bình thường chúng ta không thấy được. Thí dụ như bác sĩ có thể chụp hình phổi xem phổi chúng ta không cần phải mổ ra. Thí dụ như qua viễn vọng kính dùng quang tuyến X chúng ta có thể nhìn thấy một thế giới rất xa con mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Qua những dụng cụ kính hồng ngoại (Night Vision) chúng ta có thể nhìn thấy ban đêm đối với mắt thường chúng ta chỉ nhìn thấy đêm tối tăm dầy đặc, nhưng đối với những người dùng kính hồng ngoại ban đêm họ có thể thấy được. 

Chúng tôi không có nói tất cả đó là  thiên nhãn.  Thiên nhãn Đức Phật dạy là con mắt của chư thiên nhưng chúng tôi tạm thời so sánh để chúng ta thấy được  cái gọi là con mắt thịt của chúng ta biết dùng những dụng cụ như night vision để có thể nhìn thấy trong bóng đêm, và viễn vọng kính cho chúng ta thấy cái gì đó rất xa hay kính hiển vi cho chúng ta thấy những vật rất nhỏ thì điều đó có nghĩa ở trên thế giới này có những phương tiện, có những cách nhìn thật xa thật rõ như chúng ta thấy ống dòm chẳng hạn, ống dòm đó mình có thể nhìn thấy một sự vật cách chúng ta cả một hai cây số. Chúng tôi có một lần sang bên California đến Channel Islands Park  người ta cho một ống nhòm chúng tôi nhòm thấy một con sư tử mẹ đang đùa giỡn với những con sư tử con cách xa một cây số rưỡi, nói chung chúng ta có thể quan sát qua đó mình không có sợ  làm phiền con sư tử đó và con sư tử đó gây đe dọa cho chính mình. Phương tiện ống nhòm viễn vọng kính hay kính hiển vi hay những phương tiện đó chúng ta có thể tạm hiểu được rằng ở trong đời này có những thứ giúp chúng ta đạt đến kỷ năng nhìn rất xa rất rõ những điều mắt thường chúng ta không có, thì chúng ta tạm dùng cái đó để so sánh với cái chúng ta gọi là thiên nhãn hay mắt của chư thiên. 

Gần đây xe hơi có một phương tiện tuy rất bình thường nhưng lại hữu ích, đó là khi mình lùi chiếc xe lại mình có thể nhìn thấy được phía sau. Trước kia khi lùi xe lại chúng ta phải ngoái cổ về phía sau và chỉ thấy được một phần phía trên cái kính ở phía sau mà thôi, bây giờ người ta gắn vào một cái camera rất nhỏ ở phía sau chiếc xe gần nơi gắn bản số, khi chúng ta lùi chiếc xe  chúng ta có thể nhìn thấy phía sau xe qua màn ảnh trước mặt, nhìn thấy con chó hay đứa nhỏ hay trái banh nằm phía sau chiếc xe, và càng ngày thì chúng ta càng thoải mái với chính con mắt chúng ta có thể nhìn thấy những góc cạnh khuất tầm mắt mà ngày xưa chúng ta không nhìn thấy được. Phương tiện như vậy làm lợi cho chúng ta rất nhiều, bây giờ chúng ta cảm thấy yên tâm hơn mỗi khi chúng ta lái lùi xe bởi vì chúng ta thấy được phía sau.

 Điều đó nghĩa là trong lúc chúng ta sống ở tại đây ở trong thế giới loài người bằng con mắt của loài người nhục nhãn mình hiểu rằng có những giới hạn nhất định, và nếu chúng ta là chư thiên sanh ra do phước sanh ra như phạm thiên sắc giới do năng lực của thiền định thì đôi mắt chúng ta trở nên đặc biệt thù diệu, đặc biệt thù thắng đặc biệt có thể nhìn xuyên thấu nhiều thứ và nhìn thấy thật xa, nhưng mà rồi cho dù chúng ta có thiên nhãn như câu chuyện của Vương Tiễn ở trong chuyện Tàu hay con mắt của Chư Thiên được mô tả trong kinh điển thì cái nhìn những thứ  thật nhỏ thật xa thật là tối nó cũng chỉ cho chúng ta cảnh sắc cho chúng ta một hình ảnh rất sơ khởi của sự vật. Lấy một ví dụ như vầy, trong cuộc sống này nhiều khi chúng ta không thể nhìn sự vật bằng con mắt của chúng ta mà nó đòi hỏi  trí tuệ, nó đòi hỏi đến sự vận dụng của trí não. Về điểm này nó tạo nên một sự tinh tế khác biệt giữa người này và người kia. Chúng tôi lấy một thí dụ, nếu thường đọc sách thường đọc kinh điển thì chúng ta có thể thấy được rằng ở trong thế giới kinh điển quen thuộc đó khi đứng trước một quầy sách cầm cuốn sách lật một vài ba trang chúng ta dễ dàng nhận ra đây là tác phẩm giá trị hay không có giá trị. Nhưng nếu chúng ta không có sự tinh tế thì quyển sách đó giống như những quyển sách khác, có khác chăng là bao bì in đẹp hơn giấy tốt hơn, và chúng ta không có đủ khả năng để nhận định để xác nhận nó có giá trị, hay quyển sách này là quyển sách nên đọc nếu chúng ta ưa thích. 

 Có một lần chúng tôi nói chuyện với Sư Giác Nguyên, Sư rất chuộng đọc sách, Sư than phiền với chúng tôi rằng có người Phật tử nào đó đi ra tiệm sách bỏ rất nhiều tiền mua những sách Sư gọi là thấy mà thương, tức là không biết phân biệt sách nào là sách nên đọc, sách nào là sách thật sự là Phật Pháp có thể khả tín có thể tin được, hễ thấy kinh Phật thì cứ mua nên Sư thấy tội nghiệp nhìn thấy mà thương. Nhưng cũng phải nói để có được sự tinh tế nó đòi hỏi ở căn tính, ở sự lãnh hội, ở sự nhận thức. Chúng tôi nhớ trong kinh nói về những sự việc một vị tỳ kheo ni khi rửa chân nhìn thấy một giọt nước từ bàn chân của mình rơi xuống giòng suối, giọt nước đó nhanh chóng tan biến trong giòng nướcì vị này nhận ra lý vô thường. Hoặc giả một vị vua khi nhìn thấy cây xoài bị sơ xác lá cành bởi vì có nhiều trái chín rồi gặp đoàn thương buôn đi ngang, những người thương buôn này đã nhanh chóng hái những trái xoài trên cây và làm cho cây trở nên sơ xác, vị vua nhận thức ra sự nguy hiểm của ngôi vị của danh của lợi và vị này tìm một con đường xuất trần. Từ những hình ảnh rất quen thuộc rất bình thường trong đời sống một bậc trí bằng con mắt của trí tuệ có thể thấy biết xa hơn thì chuyện đó đòi hỏi đến huệ nhãn hay con mắt của trí tuệ.

Trong kinh Thánh Cầu, Đức Phật bậc Đạo Sư của chúng ta khi Ngài còn là một vị hoàng tử sống trong cung vàng điện ngọc, hầu như cuộc sống nhung lụa của hoàng cung bao phủ lấy cái nhìn của Ngài nhưng Ngài đã tự khởi đi một ý nghĩ bản thân của mình bị sanh già đau chết chi phối, phải chăng điều mình hướng đến đều bị sanh già đau chết chi phối?  Nghĩ như vậy Ngài đã quyết định từ bỏ hoàng cung từ bỏ cuộc sống nhung lụa. Cũng trong bài kinh Thánh Cầu, Ngài đã đi đến hai vị Thầy nổi tiếng là danh sư nhất thời bấy giờ đó là Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta cả hai vị này đều có những sở chứng rất cao do đó Ngài học thành tựu được những gì hai vị Thầy đã thành tựu, và rồi hai vị đó rất hoan hỉ mời Ngài ở lại để cùng làm giáo chủ cùng hướng dẫn hội chúng. Nhưng ở trong sự thành tựu mong chóng cao vời và ở trong cương vị của vị giáo chủ không phải là cái gì Ngài hướng đến, không phải là câu trả lời cho muôn loài chúng sinh và rồi Ngài lại lên đường tiếp tục. 

Những năm tháng khổ hạnh trắc nghiệm với hạnh ép xác Ngài đã đi đến chỗ tận cùng của phương pháp khổ hạnh, một phương pháp được nhiều Samôn, Balamôn thời bấy giờ xưng tán làm phương pháp tối thượng ở trong sự hiệp thông với Thượng Đế. Và trong sự khổ hạnh tận cùng đó cũng là con mắt trí tuệ Ngài nhận thức đây là một con đường tự hủy làm hao mòn kiệt quệ bản thân. Và rồi, cuối cùng cũng bằng con mắt trí tuệ Ngài tìm ra con đường trung đạo không lợi dưỡng cũng không khổ hạnh. Ở dưới cội Bồ Đề vào một ngày rằm trăng tròn tháng Vesak, Ngài ngồi dưới cội cây trên những mớ cỏ thảm và suốt cả đêm đó bằng định lực bằng năng lực của thiền định một thứ chúng ta tạm gọi rất gần với thiên nhãn, và thậm chí còn vượt xa thiên nhãn của Chư Thiên dục giới, Ngài đã nhớ về nhiều kiếp quá khứ Ngài đã sanh ra ở đâu, là người như thế nào, có sở hành ra sao, cha là ai mẹ là ai, Ngài nhớ từng chi tiết một, và Ngài đã nhớ nhiều nhiều kiếp quá khứ như vậy, quá khứ trở về trở thành một bức tranh sinh động qua đó Ngài nhìn thấy mình đã là như vậy. Và trong canh hai khi nhìn trọn những bức tranh đó Ngài có thể tìm ra những đầu mối tương quan của nhân này, quả này, của hạnh nghiệp này, dẫn đến chỗ tái sanh chỗ kia, Ngài tìm thấy những mấu chốt liên hệ tại sao Ngài đã sanh như thế này, tại sao Ngài sanh thành một chúng sanh như vậy, và tại sao Ngài đã vui như vậy, tại sao Ngài đã khổ như vậy. Những tương quan đó cho Ngài nhìn thấy một hình ảnh khác đó là Sanh Tử Minh một thứ trí tuệ rất rõ về hiện tượng giới, sự tương quan của các pháp. Và canh cuối cùng Ngài đã nhìn thấy rõ mặt mũi của Tanhà của Khát ái, và qua đó Ngài khẳng định một điều đây chính là động lực của tất cả, đây chính là nguyên nhân của luân hồi, và bằng lậu tận minh Ngài đã đoạn tận vô minh và ái dục trở thành vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

Khi đọc những đoạn này chúng ta nhận ra hành trình giác ngộ của Đức Phật là hành trình của tuệ giác của huệ nhãn và điều đó là bài học lớn trong đời sống của chúng ta. 

  Ngày nay, trong khả năng để làm điều gì người ta chia tiến trình làm ba phần: 

1).Phần đầu là thâu thập dữ kiện. Phần thâu thập dữ kiện người ta không cần biết chuyện xảy ra, nó như thế nào, đầu tiên tất cả những dữ kiện đó cần được thâu thập. 
2). Rồi từ việc thâu thập dữ kiện người ta dùng những phương tiện tối tân để phân tích dữ kiện từ những phòng lab (phòng thí nghiệm) đến những chuyên gia. Người ta cho thấy cái này liên hệ cái kia như thế nào. 
3).Và sau cùng người ta đưa đến chuyện xác lập báo cáo về sự việc đó đã ra sao. 

Chúng ta học về điều này chúng ta thấy chuyện sưu tập dữ kiện giống như con mắt của chúng ta ở trong đời sống hàng ngày mình thấy nó như vầy nhưng mình cũng phải xử dụng trí tuệ hay tuệ nhãn để phân tích. Có một điều rất thú vị là cuộc sống của chúng ta hay có trường hợp mình tự gạt lấy chính mình, và khi mình tự gạt lấy chính mình thì rất khó ai có thể giúp cho mình được.

 Một bài kinh ở trong Tam Tướng Phổ Thông ngày xưa các Ngài thường tụng có câu "nghe lầm ắt nói lại lầm". Có nhiều khi mình thu thập dữ kiện không chính xác mình nói ra không chính xác. Trong tuần lễ vừa rồi chúng tôi có sự kiện xảy ra; là tối thứ Bảy chúng tôi nhận được một message qua điện thoại của HT. Huyền Việt và chúng tôi đọc tin nhắn đó đại khái là HT nói "ngày mai TT. đến hương đạo xin ghé rước tôi đi bởi vì xe của tôi hư rồi, cám ơn TT.", lời nhắn như vậy. Khi chúng tôi nhận tin nhắn đó chúng tôi nghĩ HT. gửi lộn người, có lẽ là HT gửi cho Sư Thường Niệm tại vì Sư Thường Niệm dự định sáng sớm hôm sau Sư đi đến chùa Hương Đạo, chùa của Sư Bửu Đức ở Dallas, do đó chúng tôi đã chuyển tin nhắn này lại cho Sư Thường Niệm và Sư Thường Niệm đã trả lời với HT. là "con đã thay đổi chương trình ngày mai con không đi ". Và sáng hôm sau bản thân chúng tôi trên con đường để đến Austin giữa đường đến trại của đoàn hướng đạo Pháp Luân để làm lễ và nói chuyện với các em rồi chúng tôi trở về. Khi trở về chúng tôi lại nhận được tin nhắn của HT. Huyền Việt nói rằng "sao TT. bữa nay lên làm lễ cho hướng đạo mà TT. không ghé rước tôi đi với". Bấy giờ chúng tôi mới chợt nhận ra rằng message  HT. gửi cho chúng tôi không phải gửi cho Sư Thường Niệm, không phải đi chùa Hương Đạo mà đi làm lễ chỗ hướng đạo nhưng vì gửi không có dấu nên chúng tôi nghĩ sai đi.  Đó là chuyện nhầm lẫn, mình nhận cái message gửi cho mình mà mình lại nghĩ là gửi cho người khác. Chuyện đó rất thường xảy ra ở trong cuộc sống của chúng ta nhất là bây giờ chúng ta hay  gửi tin nhắn không có dấu. Cũng như làm việc trong paltalk chúng tôi cũng có những chuyện rất  buồn cười, bây giờ thì đỡ rồi vì paltalk có thể đánh tiếng Việt, ngày xưa đánh tiếng Việt không được do đó có những vấn đề phải đoán mà khi đoán mò dễ sinh ra nhiều chuyện trục trặc.

 Những điều mình thấy chưa chắc chính xác. Vô số sự việc ở trên đời này mình nói nếu mình không tự mình mắt thấy tai nghe mình không tin, nhưng ngay cả những điều mình mắt thấy tai nghe vẫn làm cho mình hiểu lầm. Tinh thần điềm đạm, một thái độ cẩn trọng, và bằng trí tuệ suy nghĩ,  dùng trí tuệ chúng ta mới thấy được vấn đề. Những người càng tự tin, những người càng nghĩ mình có trí tuệ càng thông minh thì thường hay vấp váp phải vấn đề rất là bình thường. 

Chúng tôi gặp một số người thường hay có sự hiểu lầm về đời sống nhưng họ luôn luôn tin rằng những gì họ thấy là chân lý là đúng hoàn toàn, cho đến khi nào họ sáng mắt ra được thì họ mới thay đổi ý niệm đó, họ quá tin vào chính cái nhìn của họ. Cái gì mình thấy chưa chắc là đã chính xác mình phải đặc biệt rất cẩn trọng về điểm này. Và do vậy chúng ta cần phải có huệ nhãn hay con mắt của trí tuệ. 

Nghe pháp cũng vậy, đọc kinh điển cũng vậy. Chúng ta nên nhớ trong những giờ phút cuối cùng trước khi Đức Phật viên tịch, trong kinh Đại Bát Niết Bàn ghi lại Đức Thế Tôn đã đặc biệt dạy về pháp kính, dạy về 4 điều tất cả chúng ta cần phải để ý: "sau khi Đức Phật Ngài viên tịch nếu mình nghe nói có vị trưởng lão một vị TT. nào đó nói rằng đây là điều Đức Phật dạy thì khoan vội tin khoan vội bỏ,phải đem đối chiếu với kinh và luật". Và ngay cả chúng ta thường vội tin, ví dụ như mình  nói rằng Ngài Ajahn Chah là vị thiền sư nổi tiếng thì học trò Ngài Ajahn Chah nói cái gì ra cũng tin tưởng được. Không hẳn như vậy. Hay người đó học từ Ngài Ajahn Chah là hay. Cũng không phải như vậy. Đức Phật Ngài căn dặn chúng ta rất nhiều lần là "phải đem đối chiếu với kinh với luật", phải đối chiếu thật kỹ. 

Trong kinh Kalama, Đức Phật Ngài cũng cho chúng ta biết chúng ta hay dễ tin vì lời nói đó thuộc về truyền thống thuộc về kinh điển, người nói là người có uy tín, người đó là thầy của mình v.v... Chúng ta nhìn một số yếu tố để khẳng định rằng điều đó là sự thật, nhưng không hẳn là như vậy, ở đây chúng ta cũng phải dùng con mắt của trí tuệ. 

Chúng tôi rất thích một điểm, thời đại chúng ta sống là thời đại của tự do tư tưởng, chúng ta phải đặt lại vấn đề, chẳng những chúng ta có thể đặt lại vấn đề chúng ta còn có phương tiện để nhìn lại vấn đề. Và nhờ vào việc nhìn lại vấn đề chúng ta có thể nhận ra sự việc. 

Khi chúng tôi còn nhỏ chúng tôi thường tìm những đoạn kinh mình nghĩ là chân lý hoàn toàn, thí dụ như một câu kinh: "Ân Đức Pháp - Svākkhāto bhagavatā dhammo". 

Chúng tôi có biết vị nào đó, vị tiền bối nào đó đã dịch câu đó một cách rất sai nhưng đời sau cũng dùng tới: 
"Svākkhāto bhagavatā dịch là Tam Tạng Pháp Bảo của Đức Thế Tôn đã khẩu truyền y theo chánh pháp".
 "Dhammo là pháp chánh có 9 hạng : 4 đạo, 4 quả và 1 Niết-bàn". 

Mới tụng mình nghĩ rằng điều đó đúng hoàn toàn, thì Tam Tạng khẩu truyền y theo chánh pháp bốn đạo bốn quả, câu đó thật sự rất đơn giản:
 "Svākkhāto bhagavatā dhammo - Pháp được Đức Thế Tôn khéo thuyết". 
Ngài khéo thuyết ở đây là Ngài thuyết theo phương pháp  theo trình độ văn lễ cụ túc. 
Chữ Dhammo là chủ từ. Chúng tôi cũng không biết tại sao người ta tách ra Svākkhāto bhagavatā  là một, rồi dhammo là một. 

Hay hoặc giả chuyện rất đơn giản khi chúng ta đọc câu kinh Pháp Cú: 

"Tâm dẫn đầu các pháp,
 Tâm làm chủ tâm tạo tác
 Nếu với tâm ô nhiễm
 Nói năng hay hành động
 Thì khổ não sẽ theo ta
 Như xe theo chân con vật kéo. 
Tâm dẫn đầu các pháp
 Tâm làm chủ tâm tạo tác
 Nếu với tâm thanh tịnh
 Nói năng hay hành động
 Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời hình
 Đó là hai câu kinh Pháp Cú kệ 1 và 2. 

Nhưng vấn đề chúng ta nói ở tại đây là "Tâm dẫn đầu các pháp". Pháp là gì? 
 Mạch văn cho chúng ta rất rõ nếu với tâm thanh tịnh nói năng hay hành động, nếu tâm ô nhiễm nói năng hay hành động. Mình nói năng hay hành động cũng là một phần của pháp, khổ não sẽ theo ta hay hạnh phúc sẽ theo ta. Như vậy đối với tất cả hành động và đối với tất cả quả, quả vui hay quả khổ, tâm thiện hay tâm bất thiện, hành động thiện hay hành động bất thiện quả vui hay khổ đều do tâm tạo nên. Chữ tâm đứng đầu các pháp. Chữ pháp rất rõ. Chữ pháp ở đây bao gồm hành vi thiện ác. Pháp đó bao gồm quả vui và quả khổ. Chữ đó rất đơn giản,  Đức Phật nói là tất cả do tâm tạo. Nói cách khác là nói luôn cả một câu chuyện bắt nguồn từ tâm của chúng ta.

 Ý Đức Phật nói như vầy: Chữ Pháp đó là câu chuyện và nguyên cả câu chuyện về một vị y sĩ chữa mắt cho một người, sau đó người bệnh đã sáng mắt đã hết bịnh nhưng người đó giả bộ chưa hết bịnh để không trả tiền. Vị y sĩ đó cảm thấy bị gạt nên giận và pha thuốc cho người này nhỏ lần cuối và người này bị mù luôn. Sau vị y sĩ này sanh lên trở thành một vị tôn giả có tên là Cakkhupàla. Vị này tu tập rất tinh tấn nhưng bị mù. 

Hình ảnh của một vị Alahán bị mù mắt, Đức Phật Ngài nói ngay cả câu chuyện đó, câu chuyện một người bị mù do hành động như vậy nó bắt nguồn từ tâm bất thiện. Đơn giản vậy thôi. "Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ tâm tạo tác, nếu với tâm ô nhiễm, nói năng hay hành động, khổ não sẽ theo ta, như xe theo chân con vật kéo". Ngay cả câu chuyện đó bắt nguồn từ tâm của mình.

Nhưng hồi nhỏ chúng tôi học thấy lạ lắm, không biết người nào đem ra bản sớ giải nói rằng "tâm dẫn đầu các pháp tức là tâm dẫn đầu các tâm sở". Thật ra chúng tôi thấy không có lý: "tâm thì đồng sanh với các tâm sở mà sao gọi là tâm dẫn đầu tâm sờ được.(cetasikas) . Nhưng các vị khẳng định nó phải như vậy. Hồi nhỏ thì chúng tôi không dám cãi điều đó, và các vị nói là  sớ giải nói là trong kinh ghi như vậy. Nhưng sau này học thì chúng tôi thấy rằng có những điều mình cũng phải xét lại. 

Do vậy, kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật dạy khi mình nghe pháp nào đó từ một vị TT vị Trưởng Lão nói thì mình cũng phải đem đối chiếu với Kinh với Luật chứ không phải mình nghe như vậy rồi mình tin. 

Chúng ta thường bị bịnh nghe tin đồn rồi sao đi chép lại. Trong kinh Túc Sanh Truyện ( Jataka) có câu chuyện ngụ ngôn, con thỏ nghe một tiếng như tiếng rạn nứt nó hốt hoảng nói rằng trái đất sắp sụp, nó bỏ chạy đến nói với con vật khác là đang có động đất trái đất sắp sụp thế giới này sắp bị hủy diệt, con vật khác chạy kiếm con vật khác nữa để nói là trái đất đang bị động đất và sắp bị hủy diệt, rồi cuối cùng tin này đến một con sư tử, con sư tử bình tỉnh hỏi lại là "bạn nghe chuyện đó từ đâu?" Con này nói rằng đã nghe từ con kia, con kia nói nghe từ con nọ, rồi cuối cùng tới con thỏ đó. Sư tử mới hỏi rằng: "bạn thấy cái gì mà bạn nói trái đất sắp sụp?" Con thỏ nói có âm thanh như vậy, đến điều tra thì nó chỉ là trái cây rơi xuống đất thôi. 

Chúng ta thường như vậy, chuyện sắp tận thế và chúng ta sống chờ thời mạt pháp  và chờ vị Phật tương lai ra đời thì thật sự không có cơ sở gì trong kinh điển nói như vậy, nhưng người ta nói riết, người này nói qua người kia nói lại, và tạo ra tin đồn sắp tận thế. Sự hù dọa như vậy có ảnh hưởng rất lớn. Nhưng nếu mình tìm trong kinh điển không nói đến chuyện đó. Nhưng chúng ta quên bẳng đi, cứ nghe người này nói người kia nói. Và trong trường hợp mình gặp những chuyện khó khăn chuyện phiền phức cứ mở miệng ra là nói "nay thời mạt pháp,  sắp tận thế đến nơi". Đức Phật luôn luôn căn dặn chúng ta phải cẩn trọng, phải đem đối chiếu Kinh Luật rõ ràng. 

Có vô số vấn đề trong đời sống những con người nghĩ rằng mình càng thông minh thì đôi khi mình tự mình đào cái bẫy giăng chính mình, rất dễ dàng để mình tự gạt chính mình và mình tự xập bẫy chính mình, tại vì mình đặt mình ở trong thế như vậy. 

Do vậy khi chúng ta nói về ba con mắt ở đây chúng ta tạm hiểu như vầy: nhục nhãn hay là con mắt thịt đó là con mắt của chúng ta, con mắt đó cho chúng ta thấy được màu sắc âm thanh nhìn ở trên màn ảnh v.v... nhưng con mắt đó có giới hạn.

Khi mình nói thiên nhãn là con mắt Chư Thiên sanh lên với nhiều phước báu. Nhưng trong đời sống hàng ngày mình có thể hiểu được là chúng ta cũng có những phương tiện như ngày hôm chúng ta có thể nói chuyện với người ở thật xa qua Tango hay nói chuyện và nhìn mặt nhau qua facetime, chúng ta nhìn thấy qua màn ảnh TV, qua những hình ảnh từ vệ tinh v.v... Những điều đó cho chúng ta thấy xa hơn vượt ngoài khả năng của chúng ta, nó không phải là thiên nhãn nhưng mà nó cũng là phương tiện rất là đáng thán phục như là thiên nhãn. 

Sau cùng, huệ nhãn là con mắt của trí tuệ, nó chính là con mắt tất cả chúng ta phải có, Đức Phật gọi đó là con mắt thù thắng. 

Có huệ nhãn thì cho chúng ta nhìn thấy phần ẩn khuất ở phía sau hơn là chỉ nhìn thấy mặt nổi bề ngoài. 
Có huệ nhãn thì cho chúng ta biết ràng sự việc nó như vậy nhưng chưa hẳn là như vậy. 
Có huệ nhãn nó cho chúng ta thấy được những chiều kích của quá khứ của tương lai. 
Có huệ nhãn chúng ta mới nhìn thấy xuyên qua những sự vật ở bên ngoài để thấy rằng đây là thực tướng của các pháp không phải là "Ta" không phải là "Của Ta" không là "Tự Ngã Của Ta". 
Có huệ nhãn chúng ta mới thấy được đây là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. 

Tất cả những điều đó là một bài học lớn ở trong cái nhìn, cái thấy, cái biết của chúng ta. Mong rằng những lời dạy của Đức Phật sẽ giúp cho chúng ta thắp sáng tuệ giác ./. 

Tuesday, January 6, 2015

Tịnh tướng nếu không như lý tác ý đưa đến tham dục chưa sanh khởi được sanh khởi, đã sanh được tăng trưởng

Hỏi: Tịnh tướng nếu không như lý tác ý đưa đến tham dục chưa sanh khởi được sanh khởi, đã sanh được tăng trưởng

Câu hỏi trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Tịnh tướng ở đây chúng ta nói đến tất cả những gì thuộc về hảo tướng, về mỹ tướng, ví dụ như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc. 

Trong lý duyên sinh chúng ta biết nghiệp sanh quả và quả sanh phiền não. Khi nói quả sanh phiền não; quả khổ  cũng sanh phiền não mà quả vui cũng sanh phiền não. Một người sanh ra trong đời khi đối diện với cảnh xấu thường chúng ta khởi sanh tâm sân, khởi sanh tâm bất mãn, nhưng nếu chúng ta đối diện với những cảnh tốt và nếu không khéo tác ý sẽ dính mắc. Không phải chỉ riêng đối với những gì rất thô ở bên ngoài như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc, mà ngay cả đối với một người tu tập có đôi lúc dính mắc vào những pháp hỉ lạc hay những ấn chứng trong lúc chúng ta thiền định, như vậy cũng là một sự không khéo tác ý. Tại các trường thiền,  những vị thiền sư thường nhắc nhở các thiền sinh ở bất cứ hiện tượng gì xảy ra cho dù hiện tượng đó là một dấu hiệu tiến bộ hay dấu hiệu trì trệ, cho dù hiện tượng đó đáng hoan hỉ hay không đáng hoan hỉ thì đối với một người tu tập thiền định cứ tiếp tục và tiếp tục. Chứ không phải cái đó là cái mình cảm thấy thoải mái, cái đó là dấu hiệu tiến bộ và mình dừng lại ở tại đó. Và các vị thường lấy ví dụ trên con đường mình đi có những chỗ rất khập khễnh gồ ghề, có những đoạn đường nóng cháy nhưng lại có những chỗ hoa lành trái ngọt bóng mát cảnh trí hữu tình, nhưng không vì cái đẹp nhất thời đó cái đẹp giai đoạn đó chúng ta bỏ dở cuộc hành trình, chúng ta phải tiếp tục lên đường. 

Đối với tất cả chúng ta những người tu tập ở trong cuộc sống phải nói rằng ý thức về chánh niệm là một ý thức vượt thoát, ý thức đó nằm ngoài cả hai cái đẹp và xấu. Khi chúng ta còn nhỏ lớn lên cha mẹ dạy cho chúng ta biết phân biệt cái đẹp cái xấu cái hay cái dở, và đối với Đức Phật thì một lúc nào đó ngay cả một điều rất tốt đẹp một giá trị cao vời hoặc giả một giá trị hết sức chánh đáng nhưng nếu chúng ta dính mắc vào đó thì nó cũng là một sự mắc kẹt. Trong kinh Lõi Cây Đức Phật Ngài dạy một người có thể tự thoả mãn đối với thế giới của mình, thoải mãn với sự thành tựu của mình, thành tựu về thiền định của mình, điều đó cũng là một sự dính mắc, do vậy vị đó tiếp tục lên đường. 

Không may cho tất cả chúng ta, chúng ta sống trong cõi trầm luân này chúng ta thường đi từ chỗ nghèo nàn, từ chỗ không có, từ chỗ khổ đau, do vậy bất cứ một sự thay đổi nào dù nó chỉ là một sự thay đổi nhất thời mà nó khả quan hơn tốt đẹp hơn một chút thì chúng ta nghĩ à điều đó là một điều chúng ta có thể thoả mãn được. Và đặc biệt là trên con đường tu tập thiện pháp chúng ta rất dễ thoả mãn với những gì chúng ta gọi là hay là tốt. Ví dụ một người từ trước tới bây giờ chưa bao giờ tu Bát Quan Trai Giới bỗng nhiên được bạn bè giới thiệu đến chùa tu tập Bát Quan Trai Giới cảm thấy hết sức hoan hỉ và họ chỉ mong rằng họ chỉ tu tập bát quan trai giới mãi mãi như vậy hay hoặc giả là một người chưa bao giờ tụng kinh bây giờ chúng ta tụng kinh thì tụng kinh thấy hoan hỉ và lúc nào cũng thấy chuyện tụng kinh đó là quan trọng nó trở thành chủ yếu trong đời sống của mình, chúng ta không nghĩ rằng việc tụng kinh dầu tụng kinh có hay đi nữa nó cũng chỉ là một phần sinh hoạt  chúng ta phải đi xa hơn. Ngay cả Đức Phật Ngài dạy rằng một người có đắc chứng những tầng thiền định nếu lấy cái thiền định đó làm cứu cánh thì điều đó cũng trở thành một ngăn ngại.

Nói tóm lại chữ tịnh tướng không khéo tác ý có nghĩa là khi chúng ta đối diện với những tịnh tướng dễ dàng để chúng ta thoả mãn dễ dàng để chúng ta đứng dừng lại. Chúng ta thường không có tri túc đối với những dục lạc nhưng chúng ta rất dễ cảm thấy biết đủ đối  với những thiện pháp. Đặc biệt riêng đối với tịnh tướng chúng ta phải rất cẩn thận, với một người tu tập thật sự những trở lực không làm cho chúng ta nhục trí nhiều nó không làm cho chúng ta dừng lại nhiều nhưng những điều chúng ta gọi là thành tựu và những điều chúng ta cảm thấy đáng hoan hỉ thì chính điều đó làm chúng ta dừng lại. 

Đức Phật Ngài dạy có nhiều nguyên nhân khiến cho một vị tỳ kheo hay một hành giả không thể đạt đến cứu cánh được, giống như một khúc gỗ có 8 lý do làm nó không thể trôi ra biển cả được, ở trong những lý do đó có thể là vì nó bị tấp vào bên này hay tấp vào bên kia, có thể nó bị mắc cạn, có thể nó bị thúi trong ruột thúi ra, có thể bị người vớt lên, có thể bị phi nhân với lên v.v.... và trong những lý do chúng ta tìm thấy Đức Phật Ngài ví dụ ở đây là có thể chúng ta hoan hỉ với cảnh giới của nhân thiên, tu tập để mong sanh vào cảnh giới nào đó, và thoả mãn với sự mong mỏi đó, hoặc giả  chúng ta bị vướng mắc vào cái đẹp nào đó,  và một cái gì mình nghĩ rằng cái này là một chỗ mình có thể dừng chân được có thể an trú được và như vậy thì chúng ta dừng lại. 

Cho nên đối với một người tu tập chúng ta quan niệm cuộc tu là một hành trình và trên hành trình đó những chông gai trở lực thường không làm cho chúng ta nản trí bằng những sự tiến bộ bằng những  thành tụ mang tánh cách giai đoạn. Và một người có trí một người khéo tác ý là phải nhìn thấy tất cả điều đó là cái chúng ta phải để lại một bên để tiếp tục lên đường. Đó là chúng ta nói về chuyện tu tập.

Còn nói chuyện ở trong đời sống hàng ngày thì tất cả những quả lành như trong A Tỳ Đàm nói rằng quả nhãn thức quả thiện, nhĩ thức quả thiện, thiệt thức quả thiện v.v... những điều đó cũng quá đủ để nắm níu chúng ta lại, để vướng mắc chúng ta lại. 

Nên chi trong bài kinh Vô Ngã Tướng Đức Phật Ngài đã đưa các vị tỳ kheo ở trong vườn lộc giả từ bậc Thánh Hữu Học sang rốt ráo bên kia bờ giải thoát. Ngài đã dạy những lời dạy rất rốt ráo rằng:

- "Này các tỳ kheo, bất cứ sắc thọ tưởng hành thức nào dù trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa tất cả các pháp ấy cần được nhận thức với chánh trí đó không phải là "ta" đó không phải "của ta" nó không phải "tự ngã" của ta"

Chỉ có một cái nhìn như vậy mới khiến cho chúng ta không bị kẹt lại. Ngay cả khi qúi Phật tử vào trong một rơom nghe pháp mà qúi vị thấy hoan hỉ rồi khởi lên ước muốn rằng những ngày giờ chúng ta an lạc như vầy sẽ xảy ra trong suốt cuộc đời của mình và mình không làm gì khác hơn là chỉ vào rơom để nghe pháp không, thì điều đó nó cũng là trở lực của mình hà huống chi là đối với những  dục lạc những sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc của cuộc sống này. 

Nên chi ở trong thiền học họ có một câu "move on" là tiếp tục lên đường. Tiếp tục lên đường, chữ tiếp tục coi vậy rất khó hơn là đi truy tìm cái mình thật sự hoan hỉ./.

Thursday, January 1, 2015

Nguyên nhân nào đưa đến sự tranh chấp ?

Hỏi: Nguyên nhân nào đưa đến sự tranh chấp ?

Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Một bài kinh rất nổi tiếng trong bộ Trường Bộ Kinh là kinh Đế Thích Sở Vấn, một lần Đế Thích đến đảnh lễ Đức Phật và Đức Phật Ngài thuyết pháp cho Đức Trời Đế Thích.  Trong buổi gặp gỡ này Đức Trời Đế Thích đã đảnh lễ Đức Phật và xin được hỏi câu hỏi là tại sao chiến tranh, tranh chấp, hận thù xảy ra ở giữa loài người và ở trong Chư Thiên  trên thế gian này,  Đức Phật Ngài giải thích rằng chính do hai pháp ganh tỵ và bỏn xẻn.  Ganh tỵ là tâm đố kỵ không vui với sự thành đạt của người khác, người ta giàu hơn mình, người ta đẹp hơn mình, người ta thành công hơn mình thì mình không hoan hỷ, mình cảm thấy bực bội khó chịu.  Bỏn xẻn là mình sợ  cái gì mình đang có sẽ bị lấy đi, sẽ bị tổn giảm, sẽ bị vơi đi, và chính hai pháp này  đã tạo ra vô số máu và nước mắt ở trong lịch sử của nhân loại.

Đạo Phật dạy về hạnh xả ly, hạnh buông bỏ, nếu chúng ta không tu tập hạnh buông bỏ, hạnh xả ly chúng ta chính là nạn nhân của chính mình.  Nạn nhân của chính mình là do ganh tỵ và bỏn xẻn, do tỵ hiềm đối với cái được của người khác và do sợ cái mất của mình. Nên chi cả hai điều này dẫn con người vào một cái nhìn, cho dù đó là một viên ngọc và viên ngọc ở trong tay người khác họ cũng không nhận đó là một viên ngọc, và cho dù họ có thể đi tìm thấy những ánh sáng từ một nơi khác thì họ cũng không tìm mà họ chỉ khư khư ôm  lấy cái gì mà họ có được. 

Ở trong thời đại người ta cổ võ chủ nghĩa tiêu thụ, người ta cổ võ tinh thần làm giàu bản thân thì trường hợp này đã tạo nên không biết bao đau khổ mất mát và những nghiệp hết sức nặng nề.  Với một người Phật tử  chúng ta tin vào lý nghiệp báo, biết  một người tu tập mình khuyến khích họ tu tập phước đức của mình tăng trưởng rất nhiều, nhưng nếu một người phát tâm tu tập chúng ta ngăn cản họ, chúng ta gây trở ngại cho họ  quả thật nghiệp bất thiện  rất nặng. 

Chúng tôi lấy ví dụ, một nhà Sư đang trụ trì một ngôi chùa và nếu một người Phật tử của mình phát tâm muốn đi tu thiền với một vị thiền sư nào đó hoặc  quen hay không quen với mình, mình có thể nghĩ người Phật tử này đi tu thiền khi trở về họ không còn đi chùa mình nữa, hay khi trở về họ nghĩ mình không cao siêu như họ nghĩ, hoặc giả họ sẽ phát tâm trong sạch cúng dường, sùng bái vị thiền sư kia nhiều hơn mình. Do vậy mình sẽ cản trở người này, mình  nói ra nói vào với họ là vị thiền sư đó không hẳn là vị tốt, vị đó tu chỉ bề ngoài thôi chứ không có thực chất v.v... Như vậy chẳng những mình làm mất đi những lợi ích của người đó mà bản thân của mình tạo một nghiệp rất lớn. Bởi vì một người phát tâm trong sạch muốn tu tập mình ngăn trở không khác gì chúng ta làm một hàng rào để người đó bị giam hãm vào, như người ta có mắt mình bịt mắt người đó lại bản thân của chúng ta sanh ra đời sau chịu nhiều nghiệp rất nặng, chỉ một chút danh lợi trong đời này mà gây ra bao nhiêu cái nghiệp nặng về sau này, có lẽ là một việc không dễ dàng để chúng ta nhận thấy như vậy.

Ngày hôm nay chúng ta thường nghe nhiều tranh chấp, nhiều lời nói đố kỵ qua lại trong cộng đồng Phật giáo về cá nhân này hay cá nhân khác.  Thường thường người ta hủy báng mạ lỵ nhau đơn giản vì danh vì lợi chứ ít khi vì giá trị thực sự.  Quí vị để ý như vầy những người  sống rất tầm thường ở trong cuộc đời này ít khi họ bị miệt thị, bởi họ không phải là đối tượng để người khác tranh chấp, nhưng những bậc tu tập thanh tịnh tốt đẹp, những bậc danh tăng có tiếng tăm rất thường bị đố kỵ bị dèm xiểm rất nhiều. Bởi vì có một số cá nhân họ rất sợ những ảnh hưởng của những vị này liên quan đến đời sống của họ và cho dù một số cá nhân  đó có khả năng, có sự tu tập ở trong đời sống đến đâu đi nữa, nhưng thái độ đố kỵ sẽ khiến cho những vị này đánh mất đi cái lợi ích của chính mình và dần dà rơi vào một hoàn cảnh mà chính mình lại đào bứng cái gốc rễ của mình.

Phải nói một điều, đối với chánh pháp chúng ta phải bỏ ra rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm để hiểu giá trị của chánh pháp, và trong hoàn cảnh nào  chúng ta cũng phải thấy được giá trị của chánh pháp trên hết.  Nếu chúng ta hiểu được giá trị của chánh pháp thì những ai phát tâm với chánh pháp, hoan hỷ với chánh pháp, dù rằng chánh pháp đến từ mình hay đến từ bất cứ người nào khác chúng ta cũng hoan hỷ. 

Ở trong số các vị Chư Thiên có một hạng Chư Thiên sống trong cảnh giới gọi Tusita là Cung Trời Đâu Xuất, phần lớn những Chư Thiên sanh về cõi này là những vị phát tâm trong sạch hoan hỷ đối với chánh pháp, nhìn thấy vẻ đẹp của chánh pháp, cái rực rỡ oai nghi của chánh pháp, và vị này sanh lên cõi trời đâu xuất, tại cõi trời này các vị tiên thường quây quần trong pháp hội, và những pháp hội này được thuyết giảng thường là bởi những vị Bồ Tát sắp chứng quả Vô Thượng Chánh Giác, đây là một cảnh giới rất vi diệu, cảnh giới này được thành tụ là do những người ưa thích chánh pháp.  Có lẽ trong đời sống của chúng ta một trong những điều để chúng ta vượt qua những đố kỵ những bỏn xẻn là chúng ta nên biết làm thế nào để cảm kích chánh pháp thay vì đặt mình vào thế miệt thị hủy báng chánh pháp.

Ngày hôm nay tất cả Chư Tăng trong cuộc sống hằng ngày từ y áo, cho đến thực phẩm, cho đến tứ sự, cho đến những sự cúng dường khác  Chư Tăng có được, những điều đó không phải Chư Tăng có bởi vì tài năng cá nhân của mình, thật ra Chư Tăng có được là nhờ ở Đức Phật  nhờ ở sự rạng rỡ của chánh pháp, dù chánh pháp ở thời đại nào đó đã cho cuộc đời một cái nhìn về những nhà Sư như thế nào, và ở trần gian này người ta đã giúp đỡ sao cho Chư Tăng sống như thế nào, thì một người xuất gia hay người cư sĩ khi đến chùa tu tập chúng ta quan niệm rằng cái gì chúng ta có được không phải từ cá nhân của mình mà từ di sản của chánh pháp, không có Đức Phật, không có giáo pháp thì mình không có những điều đó, nên chi bất cứ ai làm cho chánh pháp được hưng thịnh mình đều phát tâm hoan hỷ chứ không nhất thiết gì chúng ta phải đố kỵ với vị này hay chúng ta đố kỵ với vị kia.

Chúng ta rất dễ bị danh lợi chi phối, và khi con người đã mù quán trong danh lợi  thì có thể đặt mình trong bất cứ một bi kịch nào, kể cả việc tự mình đối lập với những giá trị cao qúi mà mình đã lựa trọn, tự mình làm tổn hại đến bản thân của mình, đào bứng lấy gốc rễ của mình. Điều này quả là một điều không may. 

Do vậy mỗi chúng ta ở trong hàng ngày khi nghe pháp, khi tụng kinh, khi có nhân duyên tu tập cố gắng phát nguyện là đời này và đời sau chúng ta sanh ra đời, thứ nhất là được thân cận bậc thiện hữu tri thức, thứ hai chúng ta có thể có ý thức để cảm nhận cái hay cái đẹp của chánh pháp, và xin cho chúng ta đừng bao giờ ở trong một hoàn cảnh vì danh vì lợi phải gây ra nhiều tổn giảm lớn lao cho bản thân của mình bởi vì những điều đó rất có thể xảy ra ở đời sống của chúng ta.