Saturday, April 23, 2016

Kinh Điềm Lành - Tâm Không Động

Kinh Điềm Lành - Khi xúc chạm việc đời tâm không động 

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Bud dhadhama ngày 10-5-2015, 

Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Bài kệ sau cùng của kinh Điềm Lành nói về 4 chi pháp:

Khi xúc chạm pháp thế gian
Tâm không động, không sầu
Tự tại, và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Bài giảng hôm nay nói về pháp "Tâm Không Động"

Khi  nói: Tâm tiếp xúc với pháp thế gian không bị giao động, không sầu muộn, không bị ràng buột, không bị dính mắc là  những điềm lành tối thượng. Những pháp Không Động, Không Sầu, Tự Tại, Vô Nhiễm đều liên hệ đến câu đầu " khi xúc chạm pháp thế gian". 

Pháp thế gian là Loka Dhamma.

 Loka Dhamma được hiểu theo ý nghĩa bình thường nhất của cuộc sống. Trong thế gian này khi sanh ra đời và trở nên  thành viên của xã hội trong cuộc sống chúng ta thường phải đối diện với 8 pháp và 8 pháp gọi là Loka Dhamma là 8 pháp thế gian hay 8 ngọn gió đời: khen, chê, vui, khổ, đặng, thất, vinh, nhục.

Khen, chê:  Trong cuộc sống, chúng ta mỗi người đều có một ý kiến. Một ca sĩ hát hay, một người làm việc tốt cũng có người phê bình. Việc chê hay  khen thường vượt ngoài lẽ thật, Đức Phật Ngài dạy ở trong đời này hiếm có những bậc thiện trí, chỉ có bậc thiện trí mới thật sự khen cái đáng khen, chê cái đáng chê. Phần đông người ta khen chê theo xu hướng, dựa theo thói thường, ai khen mình cũng khen, ai chê mình cũng chê theo  hay hoặc giả có những người lập dị họ ưa khen ưa chê.

Cuộc sống của một người  trưởng thành, càng trưởng thành và càng từng trải nhiều và đặc biệt có được Pháp của Phật dạy dần dà chúng ta ý thức được rất rõ  sống không thể đặt quá nặng sự khen chê và cũng không nên để lời khen chê đó giao động trong đời sống. 

Người ta có khuyên chúng ta như vầy "Một trong dấu hiệu của người trưởng thành là người có thể có đủ khả năng bình thản trước lời khen tiếng chê". Không phải mình hoàn toàn dửng dưng nhưng ít nhất trong một căn bản nào đó mình hiểu khen và chê vốn là sự thường. Ở trong xã hội Đông Phương của chúng ta đôi khi người ta không thẳng thắn, người ta rất tế nhị, món ăn dở cũng khen ngon, cái gì không hay cũng khen là tuyệt. Chính vì vậy đôi khi lúc nào đó chúng ta nhận được một lời khen chúng ta cảm thấy rất giao động, nhưng kỳ thật thì đó là lẽ thường.

 Ví dụ, khi qúi vị chuẩn bị một món ăn cho người thân của mình với rất nhiều tâm huyết để làm món ăn đó, nhưng khi ăn món ăn đó người thân không thích ăn canh, hay không thích ăn rau sống, hoặc giả họ không thích ăn cay họ gặp món ăn mình nấu họ chê, thì không nên vì vậy mà buồn bởi vì đó là lẽ tự nhiên của đời sống.

 Cái vuông tròn, dài ngắn, rộng hẹp, thế này thế kia có thể nói chúng ta thường có hàng trăm lý do để khen để chê, và đặc biệt trong một xã hội có nhiều ý kiến, người ta nói "bá gia bá tánh." 

Nên các bậc hiền trí và dĩ nhiên đối với Đức Phật dạy thì một người có đủ sự tỉnh táo trong cuộc đời này người đó không để tâm mình quá vui trước lời khen của người khác và cũng không để tâm mình bị quá giao động trước lời chê của người khác. Khen chê là pháp của thế gian.

Ở đây, Đức Phật Ngài cũng nói đến Pháp khác gọi là "vui khổ". Vui khổ có nghĩa giữa cuộc đời này không phải cái gì cũng như ý mình. Dĩ nhiên, những người có phước thì họ có đầy đủ  nhiều niềm vui hơn nguời khác, người không có phước bị khổ, nhưng chúng ta đừng quên rằng cái vui cái khổ  chỉ là một phần bé nhỏ của sự tự nhiên của cuộc sống.

 Lấy ví dụ, chúng tôi sống ở thành phố Houston có những ngày hè rất nóng, nóng đến đỗi từ trong nhà bước ra xe mình ngán ngẩm, và có những ngày rất lạnh, lạnh tê tái, lạnh mà máy sưởi trong phòng mở mình vẫn còn cảm thấy lạnh trong xương. Đó là cái vui và cái khổ của cuộc đời sống. 

Đôi khi bên cạnh khen chê thì cái vui khổ làm tâm của chúng ta giao động và không giao động, nhưng mình phải hiểu cuộc sống là như vậy. Cái vui cái khổ chúng ta thấy ở giữa cuộc đời này hiển hiện đến đỗi chúng tôi gặp rất nhiều người  từ Việt Nam sang Mỹ,  VN nghe nói bên Mỹ vui nhưng qua đây thấy người ta làm việc nhiều thì thấy tội nghiệp cho những người bên này. Ở Việt Nam tuy cực, tuy đôi khi tiền bạc không bằng bên Mỹ nhưng sự nhọc nhằng làm việc đầu tắt mặt tối từ sáng đến chiều thì không bằng người ở bên Mỹ. 

Như vậy cũng là một thí dụ cho chúng ta thấy người nghèo cũng khổ, người giàu cũng khổ, người cô đơn có cái khổ của người cô đơn, người đông bà con có cái khổ của người đông bà con, đôi khi mình thấy người ta có bà con đông đảo thấy vui sao mình không được phước như vậy  nhưng khi có bà con đông rồi có nhiều trở ngại, bà con đông có nhiều vấn đề. Do vậy, trong cuộc sống người ta nói "sống trong chăn mới biết chăn có rận" mình sống trong hoàn cảnh nào mình biết cái vui cái khổ hoàn cảnh đó.

Một dấu hiệu cho chúng ta thấy một người tương đối được hạnh phúc đó là không đặt nặng về vui khổ nhiều quá. Khi vui thì mình thoải mái một chút, khi khổ mình học hạnh kiên nhẫn. Nhưng nếu mình lấy đó làm lớn chuyện, gặp khổ mình giẫy nảy, điều đó về lâu về dài thật sự không có tốt cho mình. Chúng ta phải học kiên nhẫn, phải chịu đựng những cái khổ lớn, phải nhẫn nại. 

Ngài Ajhan Chah có nhắc chư Tỳ Kheo: "Một trong những đặt điểm của đời sống tu là mình phải biết nhẫn nại với cái khổ, cái khổ của sự thiếu thốn, cái khổ của đợi chờ, cái khổ của nóng lạnh, cái khổ của những việc không vừa ý, mình có kiên nhẫn với cái khổ thì mình mới trưởng thành".

Bao giờ cũng vậy, khi chúng ta sống giữa cuộc đời này trước khi mình được tự tại được thoải mái với cái thăng trầm vui khổ của đời sống thì chúng ta phải học hạnh nhẫn nại, hạnh chịu đựng  với cái vất, vả chịu đựng với cái không vừa ý. Chúng ta nhớ Đức Phật dạy "cũng giống như khen chê đời thường thì cái vui khổ cũng là thường, không lấy chuyện đó làm vấn đề cá nhân tại sao tôi bị khổ người khác không bị khổ? hay tại sao chỉ mình tôi bị khổ?" Thật ra nhiều người khổ họ không than và không ai sống trong cuộc đời này được khen mà không bị chê, được vui mà không bị khổ. Chuyện đó là chuyện dĩ nhiên.

Hai pháp kế trong 8 ngọn gió đời là Đặng và Thất. Đặng và thất là được lợi và mất lợi, được một cơ hội đánh mất cơ hội, được lợi lộc không có lợi lộc.

Hai chi pháp cuối cùng là Vinh, Nhục nói về Danh tức là được quyền cao chức trọng, được địa vị và cái mất đi địa vị mất đi quyền cao chức trọng.

Chính thật ra những pháp thế gian này mới nhìn mình cảm tưởng chúng mang tính riêng lẽ, mang tánh cách may rủi hay mang tánh cách hên xui mà nó ảnh hưởng cá nhân chúng ta. Nhưng một người có đủ hiểu biết Pháp mới thấy dù khen chê, dù là vui khổ, đặng thất, vinh nhục là chuyện hiển nhiên của thế gian, hiển nhiên của cuộc đời. Nếu chúng ta chỉ muốn một thứ thì đó là ý nghĩ sai lầm. Không ai trong cuộc đời chỉ có được một thứ. Cũng giống như quả lắc đồng hồ đi về bên phải rồi nó qua bên trái, chứ nó không qua bên phải rồi nó nằm ở giữa và trở lại bên phải, không có chuyện đó. Thì trong cả cuộc đời này những pháp thế gian những pháp khen chê vui khổ đặng thất vinh nhục vốn tự nhiên, vốn phải có và vốn không tránh khỏi. Nên không phải là chỉ có một câu chuyện mà có vô số câu chuyện, thời Đức Thế Tôn còn tại thế nhắc đến khả năng hành xả khả năng giữ tâm tự tại. 

Chúng tôi nhớ hồi còn nhỏ vô trong chùa Sư Trưởng có viết một bài thơ chúng tôi còn nhớ đến bây giờ: 

Bồ Tát tâm tuy sống giữa trần. 
Tâm luôn thanh thoát mọi gian truân, 
khen chê không động lòng trí giả. 
Vui khổ đâu sờn dạ giác chánh. 
Quyền tước mất còn không tủi phận. 
Lợi danh đắc thất chẳng than thân. 
Tâm luôn hành xả trò dâu bể. 
Có thế mới thành bậc thượng nhân.

Một đặc tính của người trưởng thành hay của một vị có tiến bộ trên đường tu tập là nội tâm của người đó không giao động nhiều với những pháp của thế gian. Nếu chúng ta để nó giao động chúng ta sẽ bị chi phối nhiều bị lôi kéo nhiều. Hồi Ngài Hộ Giác còn sống Ngài thường nói với chúng tôi rằng mình đi tu mình không nên để tâm mình giống như cục bột người ta muốn nặn vuông thì vuông nặn tròn thì tròn, ý muốn nói là người ta muốn mình vui người ta khen mình một câu người ta muốn mình buồn họ chê mình một câu như vậy mình dễ bị chi phối. 

Tâm của người nào tương đối trong sự khen chê vui khổ đặng thất vinh nhục ít bị giao động Đức Phật gọi là "Etammaṅgalamuttamaṃ. - đó là dấu hiệu điềm lành dấu hiệu các tường.

Trong đời chúng tôi có gặp một vài người có được tâm như vậy, đi đâu chung có cực khổ một chút cũng chấp nhận mà vui thì cũng vui vừa chừng, có ai khen thì cười một chút và ai chê thì gật đầu chầm ngâm một chút rồi thôi không để tâm mình giao động nhiều, chúng tôi xem đó là một cái đức của sự tu tập. 

Người Trung Hoa có tác phẩm của Lão Tử là Đạo đức Kinh, kinh nói cái đức là cái bản lãnh hàm tàng ở tự thân của mình. Chúng tôi tin rằng cái đức quan trọng của người tu tập là đối với những khen chê vui khổ đặng thất vinh nhục của đời sống tâm mình tương đối tự tại,bình an, tương đối không để bị chi phối nhiều. Muốn được như vậy  chúng ta phải trải qua rất nhiều thứ để tâm không bị giao động, thật ra con người chúng ta là một sinh vật sống rất nặng về thị dục huyễn ngã tức là chấp ngã. Nói mình không chấp ngã tức là mình nói dối, nói mình chấp ngã là mình thành thật nhận rằng mình là phàm phu. Nhưng nếu mình có quán tưởng, có chuẩn bị, có sự hiểu biết, mình có bạn lành thì mình sẽ bớt đi.

Lấy ví dụ, nếu mình có sự hiểu biết thì mình hiểu rằng những điều đó vốn là phải xảy ra, cuộc đời người ta khen mình được thì người ta chê mình được. Cuộc đời có vui thì có khổ, cái gì mình có được thì mình có thể mất được, mình có địa vị có chức phận thì một ngày nào đó mình cũng sẽ mất đi địa vị chức phận, cái đó gọi là khen chê vui khổ vinh nhục đặng thất là pháp thường của thế gian, khi mình hiểu như vậy thì mình phải thường xuyên quán tưởng. Có những pháp quán tưởng giúp cho mình vượt qua những chi phối tại vì mình biết trước, không phải chỉ mình biết trước mà mình biết là nó có tính đối đãi có cái này thì phải có cái kia. 

Phật xưa rằng kiếp nhân sinh,

Lắm điều khổ lụy chẳng dành riêng ai,

Xuân xanh rồi cũng tàn phai,

Thời hoa mộng tựa xuân mai đầu cành

Tấm thân tứ đại hợp thành,

Ốm đau tất bật thường tình xưa nay,

Dù cho thọ mạng ngắn dài,

Cổ kim nào kẻ thoát tay tử thần,

Người thân ly biệt người thân,

Trăm năm bao lượt khó ngăn lệ nhoà,

Mỗi người riêng biệt thiểu đa, 

Rừng mê bể khổ phải qua một mình.

Nếu chúng ta thường tu tập pháp ngũ quán là 5 pháp quán tưởng Đức Phật dạy:

- Không ai trẻ hoài mà không già, đến tuổi nào đó chúng ta phải bị già

- Không ai khỏe mạnh hoài không bệnh,

- Không ai sống hoài không chết,

- Không ai luôn luôn sum vầy với người thân không chịu cảnh sanh ly tử biệt tức là phải chia cách với người thân của mình.

- Và mỗi chúng sanh có nghiệp riêng.

Nếu chúng ta thường quán tưởng những pháp đó chúng ta giảm thiểu đi sự giao động đối với khen chê vui khổ. Nhưng để có thể giảm đi quan trọng là mình thường tự nhắc chính mình tới lúc nó xảy ra rồi thì đôi khi tâm chúng ta bị giao động lắm.

Hồi chúng tôi còn nhỏ mới vào chùa tu mỗi lần bị ai chỉ trích chuyện gì tâm chúng tôi giao động rất nhiều hơn bây giờ, không có nghĩa bây giờ chúng tôi hoàn toàn giải thoát, không phải như vậy, nhưng đỡ hơn tại vì gặp nhiều tiếp xúc nhiều và trải qua nhiều việc thành mình cảm thấy mình bình tâm hơn.

Một ví dụ, qúi Phật tử nào có sinh hoạt ở trong paltalk, qúi vị nhớ một thời có những người thường vào trong các rơom phá phách, họ text chat chửi các vị giảng sư, lúc mới vào sinh hoạt thì cảm thấy buồn nản vì sao mình vô đây với thiện chí đóng góp lại bị chỉ trích. Nhưng sinh hoạt lâu rồi biết chuyện là như vậy đó. Ở đây mỗi người có nick riêng và họ có quyền chửi bới và nếu để tâm chi phối thì không làm việc được. Và một khi tâm mình dửng dưng với chuyện đó rồi thì dần dà nó mất tác dụng người ta không phá nhiều nữa. Đó cũng là một cách để tâm của chúng ta làm quen với khen chê vui khổ chúng ta nhẫn nại nhiều hơn trong cuộc sống. 

Thì ban đầu chúng ta tập tự chế là:

- Gặp tám pháp thế gian khen chê vui khổ đặng thất vinh nhục thì mình cũng khổ nhưng mình tự chế tức là mình không để cho bực bội, mình than vài tiếng, có chuyện mình nói vài câu, nhưng mình không đi quá đà gọi là tự chế. 

- Rồi từ từ chúng ta học hạnh nhẫn nại tức là chúng ta tập im lặng, chúng ta tập nhìn sự vật như vậy, mình tập chịu đựng im lặng với chuyện đó.

- Rồi qua thời gian nhẫn nại chúng ta bắt đầu cảm thấy từ từ đi đến chỗ chúng ta bình thản tức tâm chúng ta thanh thản hơn gặp chuyện đó thấy bình thường.

- Sau giai đoạn bình thản có thể chúng ta khởi lên đại bi tâm tức là thương xót những người như vậy, họ chửi mình nhưng mình thương xót họ vì mình thấy rằng những người đó họ cũng khổ, mình thấy những người đó họ cũng có điểm đáng thương 

Muốn hành được như vậy cũng phải mất thời gian không phải một sớm một chiều mình làm được.

Trong kinh Phạm Võng ghi; Một lần Đức Phật Ngài có một cuộc hành trình dài đi với một đoàn Tỳ Kheo Tăng. Đức Phật và Chư Tăng không phải là bạn bè mà là Thầy trò, bậc Đạo Sư. Đức Phật đi trước Chư Tăng đi một hàng dài sau lưng Đức Phật và tận phía sau vị tỳ kheo có 2 thầy trò người Balamon đi theo, người thầy dùng hết lời để chỉ trích Đức Phật và Chư Tăng, người học trò thì dùng hết lời để ca tụng. Tới chừng đến nơi dừng chân Chư Tăng mới nói hôm nay đi dọc đường có chuyện kỳ lạ có 2 người Balamon đi theo, một thầy một trò,, ông thầy thì miệt thị Đức Phật, miệt thị Pháp, miệt thị Tăng và người học trò thì lại ca ngợi đủ thứ. Đức Phật Ngài dạy rằng:

 "Người có trí khi nghe người ta ca ngợi hay chê bai không để tâm mình chi phối nhiều nên giữ tâm bình tỉnh, tâm thanh thản để có khả năng nhận ra khen và chê hợp lý hay phi lý chỗ nào, biết như vậy thôi nhưng đừng để chi phối chúng ta nhiều."

Phải nói nếu có pháp gì đó mà mình có thể áp dụng Phật Pháp trong đời sống hàng ngày thì đây chính là pháp để chúng ta áp dụng. 

Chúng tôi nhớ Ngài Ajahn Liem có nói: "Đôi khi người tu buổi sáng sớm thức dậy đến tối đi ngủ nguyên một ngày giống như một người đi qua một khu rừng, quan trọng không phải hơn thua, không phải là tự hào, không phải là thế này thế kia với khu rừng đó, khu rừng là khu rừng mình làm sao từ lúc đi vào rồi đi qua khỏi đoạn đường đó tay chân được lành lặn, không sụp hầm sụp hố, không bị gai góc làm trầy sướt". 

Thật ra đời sống tu tập của chúng ta đôi khi đơn giản như vậy, từ sáng cho đến tối chắc chắn chúng ta gặp 8 pháp thế gian khen chê, vui khổ, đặng thất, vinh nhục. Nói cách khác những cái được, cái không được, những cái thích, và không thích xảy ra và làm sao buổi sáng thức dậy có tâm thanh thản buổi tối có tâm thanh thản, buổi tối đi ngủ không để cho lời khen tiếng chê chi phối mình, không để cái vui cái khổ làm bận lòng mình, không để cái đặng danh mất danh, đặng lợi mất lợi chi phối mình như vậy là hoan hỉ, là mỗi một ngày chúng ta đi vào một khu rừng với tâm tự tại, chúng tôi thấy cũng là một cách tu. 

Ở trong cuộc sống này có thể nói rằng có rất nhiều thứ. Nhưng Đức Phật gọi "Dấu hiệu cát tường" là tâm người nào ít bị chi phối ít bị giao động, ít có bận lòng, ít có nặng lòng với những chuyện nhân ngã bị thử những thị phi chuyện này chuyện kia.

Ví như ngọn gió kiên trì 

Gió cuồng tứ hướng dễ gì chuyển lay, 

Tiếng đời chê dở khen hay

Không làm chao động đôi mày trí nhân.

Càng sống càng đi càng làm việc chúng ta mới thấy chuyện khen chê thương ghét bình thường lắm, nếu nghĩ mình làm mình sống cho tất cả mọi người thương mình không ai ghét mình, người ta khen mình không ai chê mình, và mình chỉ vui không có khổ thì ý tưởng đó nông nỗi, nó nông nỗi là chúng ta đòi một thứ mà khó được, cuộc sống nó vốn là như vậy bất kỳ sự việc nào nó cũng phải có những thăng trầm những cái được cái không được

Chúng ta may mắn là con của Đức Phật và may mắn được học Phật Pháp, Đức Phật thường nhắc chúng ta nên biết bản chất tự nhiên của cuộc sống là như vậy, bởi vì nó là như vậy nên không đặt quá nặng, không quá ngây thơ nghĩ mình làm cái gì đó bằng cách này cách khác để mình bảo vệ chính mình.

Thật ra người giàu có nhiều cái được hơn người nghèo, nhưng người giàu có cái khổ của người giàu, những người có tiền thường họ dùng đồng tiền để mua những thứ họ muốn, họ mua cái tiện nghi, mua cái thoải mái, mua cái hàng rào để bao bọc, họ mua tháp ngà để sống trong đó. Khi mua tháp ngà sống trong đó nghĩ mình có tiền thì phải được như vậy nhưng rốt cuộc chúng ta sống co rút vào cũng bị chê. Có rất nhiều người giàu có tiền lên núi xây nhà đầy đủ tiện nghi xa rời mọi người nhưng không chắc mình trốn trong một thế giới nào đó trong cõi tháp ngà trong cõi riêng tư mà mình được tự tại hoàn toàn. Nó bớt cái này nhưng cũng có cái kia, con người mình càng sợ khổ, con người mình càng sợ những chi phối thì tâm mình càng yếu đuối rất là mỏng manh, và khi nó càng yếu mỏng manh thì nó dễ bị chi phối. Giống như có luật trớ trêu là có những người họ sợ ma, họ càng sợ thì họ càng cảm thấy bị yếu đuối đến một lúc nào đó họ không sợ tâm bình thường vậy thôi.

Cũng tương tự như vậy nếu cuộc sống mình rất hoan hỉ, rất nhạy cảm, rất mẫn cảm với những chuyện khen chê vui khổ đặng thất vinh nhục thì chuyện đó càng to chuyện càng chi phối mình nhiều. 

Đức Phật Ngài khuyên chúng ta nên sống bằng con mắt hiểu biết tánh tự nhiên của các pháp là như vậy.

Cách giúp chúng ta bớt khổ bớt giao động là mình giúp cho người khác, thấy người khác khổ mình lao xuống giúp cho người khác thì mình sẽ bớt khổ, những người chung quanh khổ minh sẵn sàng giúp thì mình bớt khổ. Và con người mình càng sống càng bảo vệ chính mình, càng sống mà càng muốn được cái này tránh cái kia thì  càng muốn như vậy con người mình đặc biệt càng rất mẫn cảm mà cái mẫn cảm đó cũng làm cho mình khổ. 

Bởi vậy kiến thức của Phật Pháp và sự tu tập mà có chứng minh được gì trong đời sống chúng ta là chúng ta có tiến bộ hay không đó là khả năng của chúng ta đương đầu với những ngọn gió đời, cái chi phối đến mức độ nào nếu mình gặp chuyện vui mình quá vui chuyện buồn thì mình quá buồn, người ta khen mình thì mình cảm thấy quá sung sướng, người ta chê mình thì mình như bị đạp xuống bùn thì như vậy chúng ta chưa có Phật Pháp trong lòng, tâm của chúng ta chưa vững. Cái chính của cuộc sống là không phải mình may mắn được hạnh phúc, cái chính của cuộc sống là mình có hạnh phúc mà hạnh phúc đó ít bị chi phối bởi những cái ở bên ngoài vào. Cũng đời sống nhưng có những người khổ hơn những người khác là bởi vì tâm họ dễ bị chi phối. 

Tuần vừa qua chúng tôi có một tuần lễ tu tập ở chùa, ở trong tuần lễ này có nhiều Chư Tăng giảng pháp và có nhiều Phật tử đến nghe Pháp. Khi chúng tôi đi xuống đài kỷ niệm của Ngài HT Hộ Giác có một Phật tử nói với chúng tôi một câu mà thật sự chúng tôi nghe ở trong lòng hoan hỉ, đạo hữu đó nói 

-"từ trước đến giờ đi chùa nhiều nhưng có đi dự khóa tu học nghe Chư Tăng giảng mới thấy thật ra mình tu theo Phật Pháp mình không có gìn giữ tâm mình cho được an tịnh gìn giữ tâm mình cho được an lạc. thì hầu như cái gì mình học chỉ ở ngoài da thôi"

Chúng tôi nghe lời phát biểu của vị Phật tử trong lòng  rất vui, vui không phải vì người ta khen Phật Pháp mà mình vui, mà vui vì thấy  Phật Pháp đem lại an lạc cho qúi Phật tử. Chư Tăng vị này giảng bài kinh, vị kia giảng bài kinh nhưng trong lời giảng dạy đó cho qúi Phật tử thắm thía một điểm là sự tu tập của người Phật tử chính là chỗ nội tâm của mình, nội tâm đó có được thanh tịnh có được tự tại có được vững vàng không. 

Đức Phật Ngài dạy tâm của người ít có giao động trước những pháp  là dấu hiệu cát tường dấu hiệu tốt đẹp. 

Tưởng tượng mình sống và làm việc với người nào  mà gặp chút gì vui chút gì buồn  cũng khổ sở cũng hí hửng lên thì thật ra  rất là nguy hiểm, tại vì tâm của người đó giống cây rất mềm yếu gió thổi qua thì ngã liền. 

Chúng ta không muốn như vậy, đời sống muốn cho được vững vàng không bị giao động chúng ta cần phải tu tập. Nhưng đôi khi chúng ta không hiểu, chúng ta thấy tại sao trong Phật Pháp thường nói những chuyện bi quan, những chuyện mình không thích nghe như vô thường, khổ, vô ngã, hay sự chết. Khi mình có tu tập mới hiểu những pháp đó là tự tánh hiển nhiên của các pháp. Và  tâm của chúng ta ít có bị chi phối, tâm không bị giao động , không sầu muộn, được thanh thản được tự tại vô nhiễm đó là những dấu hiệu cát tường ./.

Thursday, April 7, 2016

Kinh Vị Ngọt - Tăng Chi Bộ - Phẩm Chánh Giác

Kinh Vị Ngọt - Tăng Chi Bộ - Phẩm Chánh Giác

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 11-11-2015.

 Minh Hạnh chuyển biên.

TT Giác Đẳng: Người VN chúng ta có chữ "Tu sĩ" để chỉ các vị sống và hoạt động liên quan đến tôn giáo. 

Trong xã hội Ấn Độ  những người làm việc tôn giáo được phân làm hai: 

-1. Các vị giáo sĩ Balamon những vị này học hỏi giáo điển lo  nghi lễ, nặng về cúng tế, người VN gọi là thầy cúng.  Nhưng chỉ giáo sĩ Balamon ảnh hưởng nhiều sinh hoạt của người Balamon vì những vị này hiểu được cách hành trì.

- 2. Tầng lớp khác là Samon tức là những vị tu sĩ nhưng khác với những vị giáo sĩ, những vị tu sĩ này được hiểu là trao dồi thân tâm để chuyển hóa bản thân mình có những tiến bộ trong đời sống tinh thần. Đức Phật và Chư Tỳ Kheo nằm trong số các vị tu sĩ gọi là Samon. Người ngoại đạo thường gọi Đức Phật là Samon Cồ Đàm.

 Ngày hôm nay thỉnh thoảng trong giới tu sĩ Phật Giáo cũng có những vị dùng chữ Samon là Phạn âm của chữ Samaṇa. Đức Phật Ngài định nghĩa  chữ Samon trong một định nghĩa tương đối khác với định nghĩa bình thường. Khi chúng ta định nghĩa chữ Samon là tu sĩ là định nghĩa thường thấy, nhưng ở đây Đức Phật định nghĩa Samon là người tu tập với sự hiểu biết về cuộc sống trong cách hiểu biết Đức Phật Ngài dạy  hiểu biết chân thực, hiểu biết chân xác về cuộc đời qua 3 khía cạnh:  VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM, VÀ SỰ XUẤT LY. 

Để thật sự hiểu những điều này, vị tu sĩ hay vị Samon cần có nhận thức rõ ràng. Đối với những chúng sanh đang sống với sự tham đắm có nghĩa  những chúng sanh đó đang hưởng vị ngọt của cuộc sống, cuộc sống không có vị ngọt người ta không tham cầu, rõ ràng  nó phải có cái gì đó người ta mới tham đắm, nhưng trong sự tham cầu đó còn có một cái khía cạnh khác chúng ta cần đề cập đến đó là sự đau khổ. 

Sự đau khổ được xem là bản chất nguy hiểm của đời sống. Ví dụ, khi đi du lịch chúng ta nhìn thấy các quốc gia phát triển rất mạnh mẽ,  những thành phố được xây cất càng ngày càng lớn, càng ngày càng qui mô, càng ngày càng tráng lệ, chúng ta hiểu người ở xứ này đang hưởng vị ngọt. Nhưng rồi chiến tranh, sự ô nhiễm của môi sinh, sự căng thẳng ở trong đời sống của con người, đó là những khía cạnh nguy hiểm có thể tạm kể ra.

 Thí dụ, trong đời sống hôn nhân có thể cho con người những niềm hạnh phúc. Chúng ta tìm thấy hình ảnh của những đôi nam nữ dắt tay nhau đi dạo phố, họ sống chung nhau với những sự ngọt ngào trong tình yêu. Đối với Phật Pháp họ đang hưởng thụ vị ngọt của đời sống. Nhưng mà rồi những phiền não, những đau khổ từ bi kịch của hôn nhân như sự ghen tuông, hay sự đòi hỏi, hay sự bực bội, hay sự ràng buột đó là sự nguy hiểm. Người ta thường thấy được một phương diện của câu chuyện, chuyện của người khác thì mình sáng nhưng chuyện mình thì quáng, đặc biệt lúc mình vui mình thấy đời màu hồng, lúc mình bi quan mình thấy toàn màu đen tối. 

 Đức Phật dạy, một người sống hiểu biết là người thấy được cả hai vị ngọt và sự nguy hiểm. Và một vị tu sĩ một vị Samon thật sự phải thấy cả ba: thế nào là vị ngọt, thế nào là nguy hiểm và cũng thấy được sự xuất ly một phương thức vượt ra ngoài 2 điều đó. 

Chúng ta lấy một ví dụ, mình sống ở trong một xã hội có nhiều tiện nghi vật chất, mình mua được chiếc xe vừa ý, mình rất thích, đó là vị ngọt. Nhưng trong vị ngọt đó cũng có sự nguy hiểm, có cái mình vừa ý thì cũng có những hệ lụy của nó, có những phiền hà, mình có được chiếc xe tốt  cũng lo lắng. Vì vậy cần có sự xuất ly tức là phương cách nào đó để  sống đạt đến một cảnh giới tương đối nhẹ nhàng không bị chao đảo bởi cả hai vui và khổ,  vị ngọt và nguy hiểm của vấn đề.

 Điều này thể hiện một thứ bản lãnh, bản lãnh đó là bản lãnh có thể giải thoát được, có thể vượt lên trên được không bị dính liú vào những việc phiền hà những  vui những buồn.  Nếu chưa có khả năng xuất ly để tâm của chúng ta trở thành bình đạm với mọi sự việc Đức Phật dạy  người đó chưa đủ sự hiểu biết và chưa đủ sự sống của một vị Samon.

 Nói cách khác, trong cái nhìn của Đức Phật chúng sanh thường tình có hưởng thụ tức là có vị ngọt, có khổ đau, có sự nguy hiểm và vượt qua khỏi những điều đó tức là có phương cách để xuất ly. Một vị tu sĩ đúng nghĩa vị tu sĩ phải có sự hiểu biết chân thật, nếu không hiểu biết về vị ngọt người đó sẽ nhìn một cách phiến diện cũng như chỉ nghĩ tới sự nguy hiểm, biết chỉ một chiều, biết chỉ một mặt không đủ và đồng thời vị này cũng phải có khả năng để vượt ra khỏi điều đó. 

Ví dụ, trong sự tranh luận. Vị ngọt của sự tranh luận là làm cho người ta có cảm giác thoả mãn, thoả mãn mình đúng, thoả mãn mình hay. Nhưng sự nguy hiểm của tranh luận là dẫn đến hơn thua, dẫn đến thù oán. Và khả năng xuất ly tức là khả năng làm sao để mình không bị cuốn hút vào sự tranh luận đó. Nếu một vị tu sĩ lúc nào cũng tranh luận hơn thua về sự hành trì, về tông phái, về thế này thế kia. Vô chùa tu chưa biết mình đạt được sự giải thoát gì nhưng qua sự tu tập của mình đầu tiên là tạo sự so đo, tạo thành một sự luận chiến tức là tạo phiền phức trong việc phải phân bua về đúng, sai, phải, quấy và làm cho mình trở lên phiền hà khổ não, là do chúng ta không hiểu sự xuất ly. Một vị tu sĩ thật sự phải hiểu được tại sao chúng sanh tham đắm vào cái gì đó? tại vì nó có vị ngọt, tại sao chúng ta khổ? tại vì nó có sự nguy hiểm, nhưng vị đó còn phải hiểu khả năng xuất ly làm sao đừng để cho  bị vướng vấp nhiều quá, đừng bị cho bị kẹt vào thế giới đó.

Chúng tôi vừa  đưa ra một thí dụ rất thường thấy trong giới tu sĩ. Mình chưa làm cho tâm được ổn định đã tự bị lôi cuốn vào những tranh luận; đây là pháp môn đúng, kia là pháp môn sai, mình tu cao, người kia tu thấp v.v..  Một khi tâm bị vướng vấp vào những chuyện đó mình không thể nào thanh thản, không thể nào định tỉnh, không thể nào sống với cuộc sống tinh thần. Đời sống đi tu, vị Samôn thật sự không phải ngồi đó để tranh hơn thua với người khác, đời sống tu sĩ thật sự không phải là đời sống để mình chứng tỏ mình cao hơn người khác, không phải, mà là khả năng bản lĩnh vượt ra khỏi những hệ lụy và những hệ lụy rất thường tình. Nếu mình vẫn tiếp tục đắm chìm trong hệ lụy đó tức là mình đang sống trong sự nguy hiểm của cuộc sống.

 Nhưng sống với sự nguy hiểm của cuộc sống mà không hiểu sự xuất ly thì Đức Phật Ngài chưa gọi người đó là một vị tu sĩ thật sự, vị Samon thật sự. 

Đức Phật Ngài cho thấy một điều, một vị Samon một vị tu sĩ thật sự phải có khả năng chứng đạt chánh trí thắng trí. Thắng trí là trí tuệ thù thắng trí tuệ vượt lên trên. Chứng đạt và an trú mục đích của Samôn hạnh. 

Chứng đạt được mục đích chính của đời sống tu là gì? Mục đích chính của đời sống tu không phải mình tu rồi mình làm trụ trì, mình có ngôi chùa lớn, mình có địa vị, mình có chức vụ. Thật sự mục đích chính của đời sống Samon hạnh  là thành tựu những giai đoạn tu tập nội tại, sự tu tập nội tại đó đủ làm cho vị đó sáng suốt, an lạc, và giảm phiền não. Nếu không thấy được điều này thật sự chúng ta xa rời mục đích của Samôn hạnh. 

Giống như một học sinh đến trường ngày nay nhiều người quá quan trọng quần áo mặc gì cho đẹp để hãnh diện với bạn bè, họ quá quan trọng vào chiếc xe, quá quan trọng vào những thú vui chơi. Nhìn bên ngoài thấy những vị đó hay nhưng thật ra mục đích của đời sống sinh viên hay đời sống đi học không phải chuyện mình đua đòi hơn thua với bạn bè, mà mục đích làm sao mình học được thật sự tốt, có điểm cao, có sự tiến bộ để hoàn tất công việc học của mình. Đời sống tu tập cũng đơn giản như vậy. Nếu một học sinh trong thời gian đi học không thấy được vị ngọt không thấy được sự nguy hiểm  và không thấy được giải pháp cho vấn đề, dễ bị lôi cuốn và những chuyện không đâu vào đâu hết.

Chúng tôi đọc một vài bài báo gần đây  họ nói về những cậu ấm con nhà giàu, cha mẹ rất giàu, và muốn chứng tỏ sự giàu có bằng cách đốt tiền bằng cách tiêu pha cực kỳ phung phí. Thật sự những điều đó làm cho người ta hãnh diện thoả mãn mình giàu mình có tiền. Nhưng với một người còn trẻ  thật sự hiểu biết thì đó không phải là điều để hãnh diện. Mình may mắn sinh ra trong gia đình giàu có tiền để tiêu pha phung phí điều đó không có gì hãnh diện nhiều. Điều đáng hãnh diện là mình còn trẻ cha mẹ tuy giàu nhưng mình biết tập trung, biết lo chuyện học hành, biết trao dồi nhân cách của mình. Nhưng ít có người nghĩ được như vậy.

Đức Phật Ngài dạy rất rõ, đời sống của một vị tu sĩ không phải là chiếc áo, không phải vai trò địa vị hay gì đó làm cho một vị tu sĩ trở thành vị tu sĩ thật sự, vị tu sĩ thật sự là thành tựu thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Samôn hạnh. Mục đích Samon hạnh là tâm giải thoát và tuệ giải thoát.  

Xuyên qua nhiều lời dạy Đức Phật Ngài đã rất rõ ràng, bản thân của Ngài khi chưa thành tựu chánh đẳng chánh giác khi chưa thành Phật thì Ngài nhìn cuộc đời này cũng là cái nhìn cuộc sống phải có ý trí nhận thức được có vị ngọt, đúng là nó có vị ngọt, nhưng mà rồi nó có nguy hiểm làm chúng sanh đau khổ, Ngài nghĩ đến  con đường xuất ly. 

Và bây giờ Ngài là một vị Phật khi trình đạt giáo pháp khi hướng dẫn người ta tu tập Ngài cũng khẳng định tương tự như vậy, thế nào là một vị Samon? thế nào là một vị tu tập thật sự? Vị tu tập là vị có hiểu biết về vị ngọt của cuộc sống, hiểu biết sự nguy hiểm của cuộc sống, hiểu biết về sự xuất ly. Không hiểu được điều đó  cuộc sống mình nghèo nàn, phiến diện, và chưa gọi là đủ để tự tại trong cuộc đời này. 

Câu chuyện tại trường thiền 

Các vị thiền sư thường nhắc nhở ngay cả với một hành giả đang tu tập vẫn có vị ngọt và sự nguy hiểm đuợc tìm thấy nhưng ở mức tế nhị hơn. Chúng tôi nhớ có một vài trường thiền như trường thiền của Ngài Axàphạ ở Thái Lan, khi bước vào trường thiền cảm giác đầu tiên sẽ rất thích thú, trường thiền được xây trên một mảnh đất rất rộng với nhiều cây cao bóng mát và đặc biệt rất nhiều hoa sứ đã được trồng từ hơn 60 năm về trước bây giờ nó trở thành những cội hoa sứ già gốc to, có hoa màu nửa vàng nửa trắng và mùi thơm hoa sứ thoang thoảng. Hầu như 4 lần chúng tôi trở lại trường thiền này vào nhiều thời gian khác trong năm chúng tôi có cảm tưởng như hoa sứ nở 4 mùa. 

Trường thiền được chăm sóc quá kỹ càng, những am thất được thiết kế tiêu chuẩn quá đẹp do vậy chúng tôi có cảm tưởng như trường thiền biến thành một khu resort một nơi nghỉ hè, những người đi tu học ở tại đây thức ăn không phải trả tiền được cung cấp mỗi ngày rất dồi dào, am thất không có điện nước nhưng tương đối cao thoáng đẹp thoải mái và những con đường đi lại có hoa cỏ có cây cao bóng mát. 

Có một lần chúng tôi đến đó nghe một vị Sư đệ tử đời thứ ba của Ngài Axàphạ hướng dẫn. Vị này nói ngay cả trong thiền viện người ta cũng dễ dàng để dính mắc với vị ngọt. Vị ngọt ở đây là cảm giác rất thanh thản, rất nhàn hạ, rất đẹp, rất hữu tình của những con đường đi lại của hoa sứ của am thất. Nhưng mà rồi cũng có sự nguy hiểm, sự nguy hiểm ở tại đây là hành giả cũng có thể tự mình sống trong một thế giới mà nó quá tế nhị, nó quá thanh thản, nó quá tốt để con người hưởng sự nhàn hạ sanh ra dính mắc rồi sanh ra không tinh tấn, nó có sự nguy hiểm.

 Vị này nhắc nhở một người tu tập là phải thấy được bịnh của mình, mình sống có khi nay bịnh mai đau hay có những thay đổi về tâm lý lúc vui lúc buồn và phải nhận ra được sự vô thường của thân và tâm để tinh tấn tu tập. Nếu chúng ta vào trong trường thiền ở trong một khung cảnh thoải mái dễ chịu  không khéo chúng ta chỉ hưởng được sự nhàn hạ hay hoặc giả chúng ta sẽ bị rơi vào sự nguy hiểm khi tâm của chúng ta bị phiền lụy về những cái không được như ý. Và khả năng của một hành giả ở trong trường thiền là phải đối diện, phải tiêu hóa, phải hóa giải được những phiền hà hệ lụy. Trong mọi cuộc sống bắt buộc chúng ta phải đối diện với trạng huống tương tự. 

Câu chuyện tại Mỹ. 

Chúng tôi qua Mỹ năm 1980, khi đó được lái xe một mình đi đến nơi này nơi khác ở trong miền Nam California, cảm thấy hạnh phúc, thấy thật sự mình được tự do, thật sự sống trong xã hội tiến bộ. Nhưng, trong thế giới đó cũng có bao nhiêu thứ nguy hiểm,  phiền lụy giữa con người với con người, giữa những nhu cầu. Cũng có người thấy nước Mỹ như  một thiên đường, cũng có nhiều người nghĩ ở Mỹ có vị ngọt. Thí dụ, một người đi làm chỉ một ngày ở Mỹ  họ có thể mua một chiếc xe đạp, ở Việt Nam không cách gì đi làm chỉ một ngày mua được chiếc xe đạp, thậm chí ở đây có nhiều người chỉ đi làm một giờ cũng đủ mua một chiếc xe đạp, hoặc có người đi làm một ngày mua được cái TV. Ngày xưa lúc chúng tôi còn nhỏ ở VN cái TV trắng đen là tài sản lớn của đời người không dễ gì mua được, bây giờ đi làm mua được cái TV. Tuy nhiên ở bên Mỹ lại có bao nhiêu bi kịch, đủ thứ bi kịch từ trong gia đình ra ngoài xã hội chứ không phải đơn giản chỉ có vị ngọt không có sự nguy hiểm. Và để sống giữa cuộc đời này, giữa hai mặt nguy hiểm và vị ngọt mình có thể tồn tại ở trong sự thanh thản, có thể có những giây phút thắp một nén nhang trước bàn Phật, tụng một thời kinh, ngồi thiền, hoặc giả chúng ta đang ngồi đây để cùng nhau đọc lại những lời Đức Phật dạy, suy niệm lời của Đức Phật dạy, có những giây phút tương đối không bị vướng vấp bị kẹt vào những chuyện bên ngoài, thì không đơn giản. 

Câu chuyện cổ tích

Chúng tôi nói về một chuyện giản dị nhất đó là chuyện cổ tích. Thi dụ, ngày xưa chúng ta hiểu những câu chuyện cổ tích bà mẹ dạy con đi đường phải cẩn thận, em bé thì ngây thơ và con đường đi rất đẹp có hoa có bướm, nhưng cũng có sự nguy hiểm, có những loài lang sói, có những con sói  như vị phù thủy nó có thể dụ em bé, cuối cùng bắt em bé. Đôi khi trong một chừng mực nào đó đời sống của chúng ta giống như một em bé nhỏ ngây thơ đi lang thang ở đời trên con đường nhìn thấy bao nhiêu thứ hoa thơm cỏ lạ, có hoa có bướm đẹp, cũng có những nguy hiểm đang trực chờ phải làm sao đi đến nơi về đến chốn, phải làm sao để không  bị rơi vào sự nguy hiểm. Đó là điều trong chuyện cổ tích chúng ta thường đọc.

Sáng hôm nay chúng ta thức dậy bắt đầu một ngày mới, ngày mới có thể cho chúng ta niềm vui vị ngọt nhưng chúng ta đừng quên có bao nhiêu nguy hiểm đang trực chờ. Khả năng kéo tâm tư của mình về thực tại, khả năng ý thức được vô thường bất toại và vô ngã trong đời sống, khả năng để sống tỉnh táo tỉnh thức với cái vui cái buồn với vị ngọt của nguy hiểm, khả năng đó là khả năng của vị hành giả tu tập của đời sống Samon hạnh. Khả năng để có thể bình tâm  để giữ tâm mình bình đạm trước những xáo trộn và những chi phối về vị ngọt của đời sống điều đó không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta thường vui rất nhiều và khổ rất nhiều, chúng ta thường đưa mình lên tận mây xanh tận đỉnh cao của vị ngọt rồi chúng ta bị lôi xuống vực thẳm của khổ đau. Đời sống đôi khi có sự xáo trộn cực kỳ nó xé chúng ta thành hai ba mảnh đời và nó đưa chúng ta vào một hành trình vô định, và chính chúng ta đôi lúc giống như một con thuyền hay một chiếc lá bị cuốn theo giòng cuồng lưu và bản thân mình không thể cầm tay lái được.

 Thì ở đây Đức Phật Ngài luôn luôn nhắc chúng ta đời sống Samon và bản lãnh của Samon là khả năng có đủ sự hiểu biết về vị ngọt, về nguy hiểm, về xuất ly, vị đó có khả năng thành tựu được thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích Samon hạnh trong đời sống này. 

 Đức Thế Tôn đặc biệt Ngài giảng bài kinh này với một cách trình bày Samon hạnh. thế nào là một vị Samon thật sự, và qua đó Đức Phật cũng đề cập đến 3 điểm của một người tu đúng nghĩa, một vị Samon đúng nghĩa, một vị Samôn theo Đức Phật dạy là một người có khả năng hiểu biết vị ngọt của đời sống, sự  nguy hiểm của đời sống, và sự xuất ly của đời sống, thành tựu được thắng trí chứng đạt và an trú mục đích của đời sống Samon ngay  trong hiện tại này ./.