Tuesday, May 26, 2015

Kinh Thập Thượng - Bảy tài sản (Thất Thánh Tài)

Kinh Thập Thượng - Bảy tài sản (Thất Thánh Tài)

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 12-5-2013, Minh Hạnh chuyển biên

(Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng người chuyển biên xin đề rõ tên người chuyển biên) 

TT Giác Đẳng: Bài học ngày hôm nay chúng ta nói về 7 pháp có nhiều tác dụng hay 7 tài sản, trong kinh đôi khi dùng chử Thánh sản tức là tài sản của bậc Thánh.

Rất đơn giản, khi nghĩ đến một điều có 2 người chúng ta gặp ở ngoài chợ hay gặp ở một nơi nào đó, mới vừa gặp mới vừa nhìn chúng ta thấy bình thường, thấy không có gì khác biệt. và cũng có thể một người ăn mặc bảnh bao thậm chí lái xe đẹp có tiền. Tuy vậy ở trong 2 con người đó có những sự khác biệt to lớn về nhân cách, về kiến thức, về kinh nghiệm sống, về đời sống nội tâm.  

Khi nói đến những điều đó chúng ta thường nhầm lẫn. Thí dụ như mình nhìn một người rất khó để biết ai là người thật sự có nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến văn hay có đức tính cao qúi nào đó, chúng ta rất khó biết, nhưng chính những sở đắc, chính những đức tính là một phần luôn luôn sống bên trong người đó. Vật đổi sao dời ở bên ngoài thay đổi nhiều nhưng đời sống nội tại phải nói là con người ý thức rất sớm. Do vậy chúng ta thường thấy những bậc cha mẹ thương con thường đầu tư để con mình lớn lên đi vào trong cuộc đời có được những hành trang có được những  sở đắc không đong đo bằng tiền, không đong đo bằng những  vật chất bên ngoài mà là cuộc sống nội tại. Không may cho chúng ta về điều này chúng ta thường hay quên đi.

 Riêng đối với Đức Phật khi Ngài dạy về 7 tài sản ở tại đây chúng ta còn hiểu thêm một số nữa là không phải chỉ có kiến thức, không phải chỉ có kinh nghiệm, hay kiến văn mà còn có một số những nền tảng của thiện pháp và những thiện pháp đó đã ăn sâu và trở thành một phần của đời sống thì người đó quả thật là diễm phúc là hữu duyên hữu hạnh 

 Khi chúng ta nhìn vào danh sách 7 Thánh tài sản này, một điều chúng ta nên đặt câu hỏi: qua 7 Thánh tài sản được đề cập đến tại đây có những thông điệp gì có những ý nghĩa gì Đức Phật Ngài khuyên nhắc chúng ta.

 Chúng ta thấy rõ 7 tài sản này đều là những thành tố liên hệ đến nội tâm hơn vật chất. Điều đó chúng ta thấy rõ: Niềm Tin, Giới Hạnh, Tàm Qúi, Kiến Văn, Xả bỏ, và Trí Tuệ là những thứ đều mang đến nội tại. 

Và hơn thế nữa một lý tính thứ hai cho chúng ta thấy những tài sản này phải mang những đặc tính của thiện pháp. Một điểm khác chúng ta nhìn thấy ở đây một thái độ sống rất tích cực, nó không đơn giản như mình nói làm người thiện thì mình ngồi đó không làm chuyện gì hết đó gọi là thiện, nhưng rõ ràng khi chúng ta nhìn vào danh sách này  chúng ta thấy  một cá nhân một chúng sanh sống đời sống thiện một cách giàu có phong phú về thiện pháp thì vị đó rất tích cực. Và quả thật những thứ này làm chúng ta trở nên giàu có về mặt thiện pháp.

Pháp thứ nhất, Tín (Saddhādhana)

Pháp đầu tiên được đề cập đến là tín hay đức tin. Đức tin là một thứ tài sản.

 Chữ  Saddhà dịch đức tin là một từ thông thường chúng ta hay nhầm lẫn với niềm tin có tánh cách  bị cuốn hút, niềm tin có tánh cách là bị thuyết phục như chúng ta gọi là cả tin chẳng hạn, niềm tin đó không được dùng chữ Saddhà. 

 Niềm tin chúng ta nói ở tại đây là  một thái độ xác tín, một thái độ mạnh mẽ rất khó diễn tả nếu chúng ta không trải qua kinh nghiệm này. Thí dụ, một người khi gặp khổ người này trở nên hoang mang cầu nguyện lo lắng và không biết phải làm gì, ai bày làm gì cũng làm thì người đó niềm tin không vững chắc. Nhưng nếu một người có được niềm tin vững chắc ở Tam Bảo, ở thiện pháp, ở phước lành chính mình, người đó có thể kham nhẫn với sự khổ, kham nhẫn với sự thăng trầm trong nhứt thời để vững tay chèo vững lòng tiếp tục đi tới không bị chao đảo. Sự vững lòng đó chúng ta gọi là Saddhà. Sự vững lòng gọi là tín là cái gì khó định nghĩa. 

Hồi xưa khi chúng tôi còn nhỏ có hai người mỗi lần chúng tôi bịnh thì hầu như chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ về khả năng chữa trị, đó là thân mẫu của chúng tôi và cô Bảy Vĩnh Phúc. Khi chúng tôi còn nhỏ ở nhà thường bị sốt, thân mẫu có những cách trị liệu có tác dụng và chúng tôi thấy bịnh hết, là mẹ nuôi một đàn con  tự nhiên hiểu cái gì cần làm và chính chúng tôi phải nhìn nhận là thân mẫu chúng tôi không có học về thuốc nhưng  rất khéo nuôi con. Người thứ hai, cô Bảy Vĩnh Phúc, cô là một học trò của Ngài Tịnh Sự và cô là một vị trong những vị uyên bác về A Tỳ Đàm cô lại có kiến thức về Tây y, chúng tôi nhớ hồi nhỏ mỗi lần bệnh vào Sàigòn và mỗi lần gặp cô Vĩnh Phúc thì thật sự trong lòng chúng tôi thấy tin tưởng bởi vì cô chữa bịnh cho nhiều Chư Tăng và riêng cá nhân chúng tôi cũng có nhiều lần được cô giúp đỡ. Chúng tôi có thể cảm nhận được khi mình bịnh mình ở gần một người mà người đó cho mình được vững lòng cho mình sự tin tưởng. Và sự tin tưởng đó không phải tin tưởng suông thì chúng ta giảm bớt đi nhiều sự hoang mang, tinh thần của chúng ta ổn định và có được như vậy chúng ta lấy được sự thăng bằng ở trong cơn giông bão nếu chúng ta có được sự vững lòng. 

Có nhiều người ở trong cuộc sống xem nhẹ việc này nhất là một số bạn trẻ hôm nay nghĩ mình sống không nhất thiết phải có niềm tin. Nhưng không có cơ sở này bình thường ai cũng giống nhau. Đến lúc hữu sự lúc đời sống chúng ta chao đảo chính là lúc chúng ta nhìn thấy rõ ràng được sự khác biệt giữa người có niềm tin và người không có niềm tin. 

Sự may mắn lớn trong đời sống của chúng tôi được ở gần những bậc Thầy và các Ngài đều có niềm tin rất kiên cố. Chúng tôi lấy ví dụ như Ngài Tịnh Sự khi chúng tôi còn nhỏ ở gần Ngài chúng tôi đã thấy được kiến thức của Ngài như vậy, sự tu tập của Ngài như vậy, nhưng có những việc làm ở trong đời sống thể hiện niềm tin của Ngài rõ ràng như trường hợp Ngài tin vào sự xây cất chùa cho tứ phương Tăng là một đại dương đại phúc lớn lao. Việc đó chúng ta thấy rõ, và ở gần những vị như vậy hun đúc niềm tin của chúng ta. Và nếu chúng ta hỏi có gì khác biệt giữa một người trưởng thành và một người không trưởng thành trong giáo pháp chúng ta phải nói người có đức tin hay người không có đức tin.

 Pháp thứ hai, Giới (Sīladhana)

Tài sản thứ hai là tài sản về giới. Chữ giới ở đây chúng ta được hiểu một con người sống có những chuẩn mực có những nguyên tắc nhất định và những chuẩn mực những nguyên tắc này do Đức Phật Ngài chế định chúng ta học theo đó thực hành để chúng ta biết có những thứ khuôn khổ chúng ta không đi quá xa khuôn khổ đó.

Một thí dụ đơn giản, một người lái xe. Chúng tôi sống bên Mỹ trong chuyến đi với qúi Phật tử chúng tôi sống với cảm giác có những người luôn luôn tuân thủ những luật lệ không bao giờ muốn vượt xa điều đó. Trên con đường ở  một địa phương vắng cảnh sát ghi vận tốc tối đa được lái bao nhiêu thì cho dù một ngày rất đẹp trời ngó tới ngó lui không có cảnh sát ở trên con đường rất tốt nhưng vị này vẫn cố gắng chạy ở mức độ vừa phải không vượt quá xa vận tốc được cho phép. Nhưng ngược lại cũng có những người khác chỗ nào thấy có cảnh sát thì cẩn thận nhưng không có cảnh sát thì chạy tối đa chạy vượt ngoài vận tốc giới hạn. Chúng ta phải nói rằng dĩ nhiên việc chạy quá tốc độ đôi lúc chúng ta vô ý hay chúng ta bất cẩn nhưng có những trường hợp những người thích vượt ra ngoài khỏi  những qui định, qui định về sự an toàn, qui định về những điều nên làm. Và ngược lại có những người luôn luôn tuân thủ qui định, thì đó là một đức tánh, đức tánh tuân thủ những nguyên tắc đó là làm cho đời sống chúng ta  đàng hoàng, sống trong khuôn khổ.

Đức Phật Ngài dạy chúng ta những phương tiện như Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Sadi Giới, Tỳ Kheo Giới, hay hoặc giả Ngài dạy về Thập Thiện Thập Ác. Có những người luôn luôn thực hành 10 thiện pháp thập thiện. Hoặc giả chúng tôi nhớ một điều Ngài HT Hộ Giác hồi sinh tiền có khi Ngài  nói: "Chuyện thị phi thấy vậy chứ không phải ai cũng giống nhau, có người thích gây chuyện thị phi và vì vậy họ hay vướng vào những chuyện thị phi, nếu chúng ta nghe những chuyện thị phi chúng ta có thái độ rõ ràng mình không muốn nghe chuyện thị phi mình dứt khoát nghĩ chuyện khác thì chúng ta lại càng bớt đi chuyện thị phi". Thưa qúi vị, đó là một đức tính giúp cho chúng ta luôn luôn thoải mái ở trong những khuôn khổ, đó là đức tính giúp cho chúng ta cảm thấy cuộc sống mình có tánh cách đàng hoàng cần thiết. Thời bây giờ cũng có những chuyện mỗi chúng ta có thể học được ở trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ như 4 ác nghiệp của miệng: cố ý nói sai sự thật, nói lời chia rẽ, nói lời độc ác, nói nhảm nhí vô ích, 4 điều đó là ác nghiệp của khẩu nghiệp. Và khi Đức Phật Ngài dạy như vậy chúng ta phát nguyện sẽ tuân thủ về khẩu nghiệp không rơi vào 4 điều đó cũng là một thái độ của giới, đó là một thái độ và nếu chúng ta thoải mái với điều đó có nghĩa là chúng ta lớn mạnh với giới tài.

Có nhiều thứ, đa phần những nguyên tắc của chúng ta không được hoàn thiện những điều chúng ta chấp trị nhiều khi không được tốt do vậy chúng ta y cứ trên lời dạy của Đức Phật, chúng ta dựa trên những gì Ngài đã dạy về giới chúng ta thực hành và khi thực hành trở thành một thói quen thành một cái gì thoải mái trở thành một phần của đời sống chúng ta thì nó là giởi. 

Pháp thứ ba và bốn, Tàm  (Hiridhana) và Qúi tài  (Ottappadhana)


Chữ tàm ở đây là hổ thẹn. Sau pháp tàm có pháp qúi là ghê sợ và hổ thẹn là một cặp bài trùng và hai thiện pháp này đi chung với nhau. Chữ tàm chỉ cho sự hổ thẹn, ở đây là đối với một số những ác pháp những bất thiện pháp người này thấy xấu hổ khi mình vươn vào. Ví dụ, một người quen ở sạch sẽ bây giờ lỡ mình dính phải cái gì dơ bẩn mình đâm ra khó chịu áy náy mình phải làm sao rửa sạch đi. Sự áy náy khó chịu khi vương phải bất thiện pháp  chúng ta gọi là tàm. Còn qúi là sự ghê sợ, nó mang tánh cách mình ý thức được cái hại, ví dụ một người có tiền bạn bè rủ đi casino chơi bài thì thật ra nếu chúng ta có một chút sợ mình vướng vào trong đó mang họa, sợ vướng vào trong đó  gỡ không ra, sợ mình vướng vào trong đó tán gia bại sản. Cái sợ đó là mình có ý thức được những đe dọa cho mình,  đó gọi là qúi. 

Hai pháp tàm và qúi được xem như hai pháp hộ trì trên thế gian này, hai pháp khiến cho một người có trưởng thành trong thiện pháp khác với một người không có trưởng thành trong thiện pháp. Chúng ta thường nghe câu trong chuyện Kiều "Ma đưa lối, quỉ đưa đường. Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi" bị đưa đẩy trôi dạt  ở trong cuộc đời khiến chúng ta làm những quyết định hại cho mình và về sau chúng ta không biết tại sao "ma đưa lối qủi đưa đường" làm chúng ta quyết định như vậy. Nhưng với hai pháp khiến cho chúng ta tránh đó là tàm và qúi trong cuộc sống. Pháp tàm và qúi tự nhiên cho chúng ta một thái độ tỏ rõ đây là thiện đây là bất thiện. Và khi thái độ tỏ rõ như vậy sẽ bảo vệ mình,  như một thứ rào chắn,  như một thái độ cho chúng ta sống trong khuôn khổ cần thiết và khi chúng ta bị vướng mắc hay chúng ta đối diện với những bất thiện chúng ta tương đối có được một thái độ thích hợp. Thì đối với Đức Phật hai pháp tàm và qúi này giúp hộ trì bản thân, giúp chúng ta tránh được những trường hợp gọi là "ma đưa lối qủi đưa đường". 

 Pháp thứ năm, văn tài.  (Sutadhana)

 Chữ  văn ở đây là một khái niệm người Ấn Độ đã giới thiệu vào trong nhiều nền văn hóa kể cả nền văn hóa Trung Hoa và văn hóa Việt Nam của chúng ta. Chữ văn có nghĩa là nghe. Khi nói đến kiến văn chúng ta nói thấy và nghe hay chúng ta nói người đa văn quảng kiến tức  nghe nhiều học rộng. Nói một cách khác ,chữ văn ở đây đồng nghĩa với chữ lắng nghe hấp thụ được, truyền đạt được học hiểu. Không ai trong chúng ta sanh ra đời tự nhiên khôn và biết mọi thứ . Chúng ta sống có hiểu biết nhờ học, học từ sách vở, học từ Thầy Tổ bạn bè, từ cuộc sống. Nhưng một người có kiến văn là người có khả năng tiêu thụ, mình nghe điều đó mình thấy điều đó và mình tiêu hóa để trở thành phần tri kiến của đời sống, chúng ta gọi là kiến văn. 

Nhân loại hôm nay đi qua giai đoạn đặc biệt khác hơn lịch sử là chúng ta có ý thức rất lớn về vai trò của kiến thức ở trong đời sống, chẳng những vậy chúng ta còn có phương tiện để thu thập những kiến thức đó như trường học qua sách vở, dĩ nhiên bên cạnh trường học trường lớp đào tạo chúng ta có sách vở chúng ta có những phương tiện thông thường. 

Mình đang sinh hoạt trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma là một ví dụ cụ thể nhất. Ở đây nhờ mỗi ngày chúng ta vào lớp chịu khó lắng nghe, đi qua từng chi pháp những điều được đề cập đến trong kinh, nghe các vị giảng sư nói, nghe các vị giảng sư thảo luận và chúng ta ôn nhắc lại thì lâu ngày Phật Pháp trở thành một phần của đời sống, lâu ngày Phật Pháp trở thành cái gì đó thân thiết, rõ nét ở trong cuộc sống của mỗi người, như vậy là lợi lạc, có lợi ich rất lớn. Những điều đó không thuộc về sách vở, không thuộc về người khác mà nó đã là một phần cuộc sống của mình. 

Về điểm này cũng phải nói khả năng hấp thụ để học hiểu và sự tiêu hóa đúng mức cho chúng ta nội hàm cho chúng ta có tri kiến. Mình phải để ý một điều ngày nay chúng ta có máy vi tính, chúng ta có thư viện, chúng ta có những tủ sách. Đành rằng những điều đó là những phương tiện rất tốt . Nhưng chúng ta tuyệt đối không nên trông cậy và giao hết những thứ đó cho sách vở. Mình nghĩ rằng những kinh sách mình để trong máy vi tính, mình để trong tủ sách của mình. Nhưng mà chưa, chúng ta có thể xử dụng những thứ đó nó chỉ là một phần của câu chuyện, một pần nửa câu chuyện đó là mình phải có được cơ hội để thâm nhập thật sự vào trong tâm của mình  mới là  kiến thức của mình.

Đôi khi chúng tôi thấy qúi Phật tử, riêng về chuyên Phật pháp nhiều khi mình đinh ninh mình có ông Thầy giỏi là được, mình đinh ninh  kinh điển đó mình đã có trong tủ sách, mình đã có để trong máy vi tính. Nhưng thật ra đó cũng chưa là một phần của mình. Nó chỉ một phần của mình khi nào mình có dịp ngồi xuống đọc, nghe thảo luận và đem vào trong lòng. Quá trình tiêu hóa như vậy, thẩm thấu như vậy  biến những tri kiến trở thành của mình. Nếu chúng ta để trong sách vở, để trong máy vi tính nó chỉ là một phần thôi và có những tri kiến như vậy được thâm nhập được rõ ràng ở trong lòng thì chúng ta sẽ có thành tựu. Sự thành tựu ở tại đây là sự thành tựu chúng ta nói đến hàng bao nhiêu sinh viên bao nhiêu người mỗi năm được tốt nghiệp được ra trường. Và bao nhiêu người của chúng ta không nói đến chuyện học đường chuyện bằng cấp nhưng nhờ thấy và nhờ biết và cuộc sống của chúng ta thay đổi hoàn toàn. Đời cũng vậy đạo cũng vậy. Đối với chúng ta sự tu tập, đối với chúng ta sự phục vụ ở trong đạo không thể đơn thuần chỉ có niềm tin mà chúng ta cần đến Phật Pháp, Phật pháp ở đây không phải chỉ người khác họ nói sao mình nghe vậy, chúng ta còn có được sự cân nhắc,  còn có được sự đối chiếu, còn có được sự tỉ giảo so sánh giữa pháp này và pháp khác ở trong Kinh và Luật nói như thế nào. Về điều này cần phải có tri kiến và chúng ta nên biết hoan hỉ, chúng ta nên biết tha thiết đối với những kiến văn Phật Pháp. 

 Pháp thứ sáu, thí tài. (Cāgadhana)

Chữ thí tài (Cāga) là khả năng buông xả, khả năng xả tài, đôi khi dịch là xả tài hay thí tài tức là mình biết cho. Con người chúng ta có một bịnh muôn thưở là sự ích kỷ, ích kỷ dẫn đến thủ đắc, dẫn đến sự gom góp muốn nhận vào không muốn cho ra. 

Một ở trong những yếu tính đặc biệt lợi lạc cho tất cả chúng ta trong cuộc sống tâm biết buông bỏ, xả bỏ những gì mình gọi là tư hữu tài sản hay cái gì mình có, đó là sự chia sẻ. Ví dụ như có một món ngon có người khác đến mình không ăn một mình mà mình chia cho, đó là một trong những hình thái chia sẻ gọi là san sớt san sẻ, đại khái là ở mức độ bình thường. Đi xa hơn nữa, ở trong đời sống không phải chỉ tri cốt mà mình biết góp phần, cuộc đời cho mình nhiều quá bây giờ mỗi lần thấy có nhu cầu có chuyện cần mình biết chia sớt như một sự đóng góp của mình đối với người khác. Đức Phật gọi Cāga  hay sự xả bỏ 

  Chúng ta cũng nói thêm một điểm nữa ở tại đây, đối với rất nhiều người Phật tử quan niệm bố thí là cách tạo phước. Tạo phước ở đây tức chúng ta tạo thêm cái gì mình đang có. Nhưng thật sự chữ Cāga ở đây không đơn thuần  tạo thêm cho mình có mà nó còn có nghĩa là mình giảm bớt đi sự ích kỷ, một sự tom góp, chúng ta gọi chỉ biết có phần mình không. 

Về điểm này rất thú vị. Nếu chúng ta suy nghĩ lại tuy là một pháp Cāga  nhưng chúng ta có thể có cách hiểu trái chiều với nhau. Một trái chiều là có người nghĩ bố thí có nghĩa mình tạo thêm để mình được giàu thêm, để mình có  thêm nhiều do phước bố thí. Nhưng ngược lại, có một thái độ khác, mình bố thí có nghĩa mình bớt đi tâm ích kỷ tâm bỏn xẻn lúc nào cũng chỉ biết có mình thôi. Cũng cùng việc làm đó nhưng khác nhau trong đường tơ kẻ tóc và chúng ta phải nhìn nhận rằng chúng ta rất dễ bị lẫn lộn việc này. 

Nên trong cuộc sống một trong những cái may của  người Phật tử những người con Phật hiểu đạo là chúng ta thích làm chuyện bố thí, chúng ta thích xả tài, chúng ta thích làm được một cái gì đó. Bây giờ thay vì tiền đó chúng ta đi mua một cây trồng trong vườn nhà mình, bây giờ chúng ta mua cây trồng ở chỗ nào cho đại chúng được hưởng dụng chung thay vì những thứ đó chúng ta hưởng hết. Hoăc thí dụ, có một bình trà ngon chúng ta có thể uống hết bây giờ chúng ta chia sẻ cho người khác, sự chia sẻ như vậy làm giảm bớt lòng ích kỷ giảm bớt sự bỏn xẻn và đời sống của chúng ta đưa đến khung trời cao rộng. Thật ra những người sống lúc nào cũng chỉ biết tom góp thôi chỉ biết gom vào cho mình không cho người khác và mình nghĩ rằng họ rất khôn ngoan và họ biết giữ riêng cho họ. Nhưng người thật sự cố gắng chia sẻ là có suy nghĩ mình đến với cuộc đời cái gì cuộc đời cho mình của trần gian thì rốt cuộc chúng ta cũng phải trả lại cho đời không có cái gì chúng ta giữ hoài, không có cái gì chúng ta mang theo hoài. Do vậy, chúng ta sống nên biết san sẻ chúng ta nên biết thỉnh thoảng làm một cái gì đó cho cuộc sống có ý nghĩa. 

Pháp sau cùng là Trí Tuệ. (Paññādhana)

Hồi nãy chúng ta nói đến văn tài tức là kiến thức và chúng ta nói đến sự hấp thụ.  Hấp thụ là nghe nhiều hiểu rộng học hỏi có kiến thức, chúng ta đừng lầm lẫn đối với trí tuệ. 

Trí tuệ ở đây là khả năng nhìn vấn đề qua tính cách nhân quả, đây là Nhân Sanh Khổ, đây là sự Diệt Khổ, đây là Con Đường Dẫn Đến sự Diệt Khổ, đây là Thiện, đây là quả của Thiện, đây là ác pháp đây là quả của ác pháp. Khi  chúng ta nhìn thấy vấn đề có tánh cách logic, có tánh cách hợp tình hợp lý, có tánh cách có một cái nhìn  thông đạt thấu suốt dựa trên nhân quả chúng ta gọi là trí tuệ, cái nhìn đó là một thứ tài sản lớn trong cuộc sống.

 Theo trong kinh điển của Phật Giáo chúng ta đọc được Đức Phật Ngài nhấn mạnh rất nhiều vai trò của trí tuệ trong cuộc sống hàng ngày ở trên hành trình tu tập và ở cứu cánh tu tập chúng ta gọi giác ngộ giải thoát, tất cả những điều đó đều nằm ở trong phạm vi của trí tuệ. Nên người Phật tử khi học Phật Pháp chúng ta thường nói đến nhân quả, chúng ta nói đến duyên, nói đến nghiệp, chúng ta nói đến duyên sinh duyên hệ, chúng ta nói nhiều thứ. Nghĩ lại cho cùng, những pháp nhân quả năng sở đều mang tánh cách tương tác nhân này cho quả kia, quả này do nhân nào, và nhân này dẫn đến quả nào, cái đó là sự mài dũa trí tuệ của chúng ta. Trí tuệ sắc bén nhờ nhân quả từ trong phòng thí nghiệm cho đến công việc ở ngoài đời, cho đến đời sống hàng ngày của  chúng ta. Mình sống tại sao mình bịnh mình phải biết nguyên nhân của nó.

 Chúng ta ngày nay thường nói "hên xui" nghe nhiều khi cũng có lý nhưng thật sự người ta thường lạm dụng chữ hên xui, cái gì cũng hên xui, hên xui nhiều quá mình không có để ý mình không cân nhắc đến nhân quả. Kỳ thật, không phải ai trong chúng ta cũng biết hết mọi nguyên nhân của vấn đề, mọi quả của của cái gì mình đang tạo. Nhưng ở chừng mực nào đó chúng ta cũng có khái niệm. Chúng tôi lấy ví dụ buổi sáng thức dậy bằng tâm tư thanh thản thái độ tích cực thì ảnh hưởng nguyên ngày,  chúng ta thấy nhân quả rõ ràng. Hay hoặc giả mình có những lời nói đụng chạm những lời nói mang lại khổ đau phiền não cho người khác, những điều đó nếu một người hiểu biết nhân quả thì ý thức được điều này mang đến cho chúng ta những  phiền lụy, điều đó gọi là nhận thức qua lý nhân quả.

Thì 7 thiện pháp này là 7 thiện pháp nếu một người khéo sẽ trở thành một phần của đời sống, và khi là một phần của đời sống thì là một thứ tài sản và tài sản đó có trong đời này mang theo trong đời sau và ảnh hưởng một cách tốt đẹp khiến chúng ta thay đổi được thói quen thói tật của chúng ta ./. 

Tuesday, May 12, 2015

Kinh Thập Thượng - Làm Cách Nào Hóa Giải Hiềm Hận

Kinh Thập Thượng - Làm Cách Nào Hóa Giải Hiềm Hận 

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhamma ngày 6-6-2013, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng:  Có lẽ một câu hỏi chúng ta nêu lên hơi ngây ngô một chút: "Tại sao chúng ta giận?"

Câu trả lời thường là tại vì có ai đó làm cho mình giận. Có thể có việc gì đó làm cho mình giận nhưng việc gì đó không quan trọng bằng có ai đó làm. Bởi vì nếu việc đó là việc vô tình không có người chủ mưu có lẽ chúng ta không giận nhiều bằng có ai đó làm chúng ta giận. Đó là câu trả lời của chúng ta.

 Nhưng bây giờ nếu có câu trả lời như vầy chắc nhiều người trong chúng ta không đồng ý khi được hỏi: "Tại sao chúng ta giận?"

 Và câu trả lời: "Tại vì mình muốn giận".

  Khi nghe câu trả lời này chúng ta sẽ phản đối ầm ĩ lên. Có ai thích giận bao giờ, giận là phiền lắm, giận là nóng nảy lắm, giận là khó chịu lắm, nó là thứ phiền não cực điểm thì tại sao lại muốn.

 Nhưng trên thực tế là một phản ứng có lựa chọn và sự phản ứng đó chúng ta cho rằng hợp tình hợp lý nhất. Người xưa họ có câu " Nửa đường gặp chuyện bất bình thì rút dao tương trợ", gặp chuyện bất bình thì phải giận thôi, không giận không được nhưng có nhiều khi không lớn chuyện như vậy chúng ta vẫn thích giận bởi chúng ta muốn giận. 

Nghe như vậy có lẽ hơi phi lý một chút nhưng khi chúng ta nổi cơn giận mình nghĩ rằng việc đó sẽ cho mình cái gì đó, mình muốn chứng tỏ người khác mình không dại, mình muốn chứng tỏ cho người khác biết mình không dễ ăn hiếp dễ bị bắt nạt. Nhưng cơn giận không phải chỉ đến đơn giản là cách giải quyết ở trong xã hội mà cơn giận còn được nuôi dưỡng ở trong lòng của chúng ta âm ỉ từ ngày này sang ngày khác. 

Bây giờ mặc dầu chúng ta không đồng ý do mình muốn giận nên mình giận. Chúng ta thử đi một vòng một vài trắc nghiệm tâm lý và thử đọc lại một vài tài liệu Đức Phật thời xưa dạy và ngày hôm nay chúng ta cũng nghe các bác sĩ nói. 

Ví dụ, thời Đức Phật còn tại thế một lần Hoàng Hậu Mallika hỏi Đức Phật tại sao có những người sanh ra màu da trong sáng có người sanh ra màu da xấu xí, Đức Phật Ngài cho biết chính sân tâm ở trong nghiệp đã tạo làm cho người sanh ra da họ xấu xí  và chính tâm từ hay sự mát mẻ của tâm sanh ra làm màu da họ trong sáng.

Và rồi trong rất nhiều trường hợp chúng ta nghiệm ra một chuyện là tâm sân dẫn đến những sự sân hận và sự sân hận đó rốt cuộc dẫn đến sự hủy diệt dẫn đến chỗ thương tổn, như những cuốn phim chúng ta coi hai bên đánh nhau xử dụng rất nhiều chiêu thức nhìn rất đẹp cuốn phim rất hấp dẫn, nhưng chung kết của cuốn phim đó hai bên đều chết.

Những bi kịch của đời sống vốn dĩ đến từ những cái gì rất vô minh, nó vốn là phiền não. Những người tạo nên những cơn phong ba bão táp, tạo nên họa cho chính họ và cho người khác, những người đó luôn luôn nghĩ rằng họ rất khôn ngoan. Đôi khi có những câu Phật ngôn hết sức đơn giản, hết sức ngắn chúng ta bỏ qua. Thí dụ trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy 

"Những người thuộc bên này bên kia không ý thức được chính sự tranh chấp này sẽ dẫn đến chỗ tiêu diệt, ai nhận hiểu ra điều đó những tranh chấp tự nhiên tan biến". 

Khi hai người không đội trời chung, hai con người nghĩa là một mất một còn đánh nhau thì dẫn đến chỗ tiêu diệt, dẫn đến chỗ tự hủy, bài học đó không phải xảy ra một lần mà xảy ra rất nhiều lần ở trong đời sống của chúng ta. Thì một trắc nghiệm chúng ta làm ở tại đây như lời của Đức Phật dạy qua sự lập lại của Ngài Xá Lợi Phất là:

 "Chúng ta nên tự hỏi những điều đó có lợi ích gì?"

Chúng ta nghĩ về bản thân của mình đã đang và sẽ bị hại, chúng ta nghĩ những người thân của mình đã đang và sẽ bị tổn thương, chúng ta nghĩ về những người không thân của mình đã và đang bị và sẽ bị tổn thương, chúng ta thường nghĩ rằng nó có lợi ích chứ, lấy ví dụ như bây giờ mình nói kẻ thù đánh mình mà mình không biết thì mình bị chết, kẻ thù đánh mình mà mình đứng làm thinh thì mình dại, kẻ thù chửi mình mà mình nín thinh thì họ nói mình hèn thì như vậy ít nhất sự giận dữ của mình, ít nhất sự tức tối của mình cũng cho người ta thấy rằng mình cũng khôn. Nhưng tự thử đặt câu hỏi lại nếu mình chửi lại mình có khôn không.

 Sống trong chùa và sinh hoạt trong cộng đồng cũng như trong giáo hội chúng tôi chưa bao giờ thấy có một cá nhân nào dùng những danh từ phạm thượng xúc xiểm nặng nề chửi người này chửi người kia đời sống của họ tự họ an lạc và cuối cùng đời sống họ khá, chúng tôi chưa thấy. Những hình ảnh đẹp nhất những chung cuộc tốt nhất đều đến với những người biết tự chế biết sống trong sự hoà ái, biết sự tương nhượng kính trọng lẫn nhau. Những người hung hăng những người nói lời chửi bới thì một thời buổi rồi thôi nhưng đời sống của người đó ở cuối cuộc đời rất khổ.

Trong giới tu hành có một hạng người khẩu nghiệp của họ rất bất tịnh, chúng tôi dùng chữ bất tịnh ở đây là nhẹ nhưng khẩu nghiệp của họ rất bất thiện, rất ác. Tại vì sao vậy? Tại vì trên phương diện tâm lý khi người ta có thể làm được điều này, có thể làm được điều kia, người ta có thể có được những thành tựu trong cuộc sống thì người ta không thích phí hơi phí sức phí lời. Nhưng có những người ở trong cuộc đời họ không có cái gì để họ sống an lạc, không có gì để họ vui họ quay sang họ nói và khi họ nói thì họ không có khả năng nói hay tại vì nếu họ muốn nói hay tâm họ phải tốt mới nói hay được, tâm họ không tốt thường họ nói sai nói bậy nói quấy, và nói như vậy họ nghĩ họ hay họ giỏi nhưng thật sự không phải vậy, họ  tối ngày chỉ trích người này công kích người kia đả kích người nọ, đó là cái tật, đó là  tiền khiên nghiệp, đó là thói quen, và đó là con đường đi chỗ ác thú đọa lạc của họ. Không ai cản họ được, cản họ không phải là chuyện dễ dàng tại vì nó là một phần lớn của đời sống họ. Qúi vị thỉnh thoảng gặp những vị tu sĩ suốt ngày cứ chỉ trích người này chỉ trích người khác, thật ra thì những vị đó bản chất không quá tệ nhưng đó là thói quen không nói thì buồn, rảnh quá thì ngồi nói chuyện người này người kia.

Nên chi chúng ta hãy cẩn thận, cẩn thận ở một điểm là thói quen chỉ trích, thói quen xử dụng những lời ỷ ngữ ác khẩu, thói quen nói những lời cao ngạo, nói những lời bôi bác, những lời bài xích những điều đó đôi khi đến từ tâm tư của con người bệnh hoạn, tâm tư con người không có lẽ sống an lạc. Nhiều khi chúng ta phải đặt vấn đề tại sao mình thường chỉ trích người khác, cần phê bình người khác, tại vì mình không có lẽ sống an lạc, nếu mình có lẽ sống an lạc  mình sẽ không phí thì giờ như vậy. 

Chúng ta thử hỏi một điều, nếu nhà chúng ta có vườn cảnh đẹp, nhà đẹp chúng ta đâu mất thì giờ chạy qua than phiền hàng xóm, phải không ? Chúng ta chỉ trích hàng xóm tại sao trồng bông hoa xấu, tại sao cây kiểng không đẹp, tại sao không có nghệ thuật v.v... Chúng ta chỉ trích người khác bởi vì chúng ta rảnh quá hay đời sống chúng ta trống rỗng không có cái gì để an lạc, nếu đời sống chúng ta an lạc thì đã không bơi móc không để ý đến chuyện người khác như vậy, thì giờ để mình sống cho mình thì giờ mình làm lợi ích cho mình không hết lấy đâu có thì giờ để đi xoi bói người khác. Bởi vậy, người ta nói những người bận rộn với công việc không đáng sợ, nhưng những người rảnh rỗi quá là những người đáng sợ, có câu "nhàn cư vi bất thiện". Nhưng quả thật chúng ta hiểu một điều là một khi chúng ta thường sân hận, thường chỉ trích, thường bài kích người khác chúng ta phải hiểu chính bản thân của chúng ta, chính trong cõi lòng của chúng ta không có chất sống, không có sự an lạc không có một cái gì đó làm cho chúng ta cảm thấy tự hoan hỉ được. Không có chất liệu của sự an lạc thì đó là vấn đề, 

 Đức Phật Ngài dạy chúng ta một điều rất đơn giản: "chúng ta hãy tự đặt ra là mình nghĩ như vậy, mình nuôi hiềm hận như vậy, mình nuôi sân tâm như vậy có lợi ích gì không ?"

 Tại Hoa Kỳ người ta làm một thống kê có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết, như bệnh tim hay bệnh áp huyết là một ở trong những nguyên nhân chết của rất nhiều người, những bệnh đó đều liên hệ đến một thứ gọi là stress hay căng thẳng. Sự căng thẳng của đời sống quả thật làm hại chúng ta nhiều. Nên chi có một câu thần chú chúng ta thường nên đọc đi đọc lại "giận người thì khổ cho mình" , khi nào chúng ta hay nói lập đi lập lại "giận người khổ cho mình" thì cũng đỡ phần nào tại vì lúc mình giận người ta mình nghĩ mình giận như vậy là đã nư mình nói như vậy là đã tức nói như vậy là thỏa mãn. Nhưng thật ra chúng ta đang khổ.

 Vẻ đẹp của Phật Pháp là: Phật Pháp nói đây là tham, đây là sân, đây là si, và tham sân si là phiền não.

 Chữ phiền não đôi khi chúng ta phải đem ra nhai đi nhai lại để chúng ta tiêu hóa. Tại sao những thứ đó là phiền não? Phiền não là cái gì làm chúng ta không được an lạc, phiền não là cái gì làm cho chúng ta ray rứt  phiền não là cái gì làm cho chúng ta đứng ngồi không yên, phiền não là cái gì đốt nóng chúng ta.

 Nếu mình có thể nhận ra được như vậy thật sự chúng ta có thấm nhuần Phật Pháp. 

Sự thấm nhuần Phật Pháp là gì? 

Đối với chúng tôi nghĩ một ở trong dấu hiệu thấm nhuần Phật Pháp là chúng ta chợt nhận ra đây là phiền não và phiền não là điều đốt cháy mình dù đó là tham sân si. Còn bình thường nếu không tu tập  chúng ta thấy phiền não không phải là phiền não mà chúng ta thấy phiền não đó là sức mạnh, phiền não đó là niềm tự hào, phiền não đó là  vốn liếng là nội lực của chúng ta. 

Nhưng thật ra phiền não không phải nội lực, phiền não là cái gì làm cho chúng ta tê tái, làm chúng ta chết đứng, làm chúng ta kiệt quệ, làm chúng ta bị thiêu đốt, nó là phiền, là não, và phiền não là một thứ lửa. Nếu chúng ta thường thấy điều đó thì chúng ta phải đến gần Phật Pháp một chút. 

Hồi nhỏ chúng tôi có đọc một tập tài liệu do Ngài Nanada nhờ một vị bác sĩ Việt Nam tên là BS Nguyễn Trực Thiện. Bác sĩ Nguyễn Trực Thiện là con của cư sĩ Trùng Quang Nguyễn Văn Hiểu. Vì là bác sĩ nên ông có nghiên cứu về y học. Tập tài liệu nói về ảnh hưởng của sân tâm đối với cơ thể chúng ta như thế nào và ảnh hưởng tâm từ đối với cơ thể chúng ta như thế nào. Khi đọc bài viết đó chúng ta thấy rõ ràng chưa nói đến Phật học, chưa nói đến học A Tỳ Đàm nói về sắc tâm, chưa nói đến đoạn kinh sâu xa trong kinh điển, chúng ta chỉ mới đọc tài liệu thì chúng ta thấy rõ ràng ngay trước mắt đó là "giận người thì khổ cho mình", khổ lắm, nó khổ không phải một ngày một bữa mà những chất axit là một độc tố được tiết ra từ trong cơ thể do sân tâm sanh ra làm cho cuộc sống chúng ta đi đến chỗ tàn tạ hệ lụy

Thật tình mà nói chúng ta đã hoang phí rất nhiều thì giờ của cuộc sống, chúng ta đang gây tổn hại cho mình rất nhiều bằng cách ngâm tẩm tâm tư của mình trong phiền não, ngâm tẩm tâm tư của mình trong hận thù. Một khả năng lớn nhất của chúng ta là phải vượt ra ngoài điều đó. 

Một lần chúng tôi có dịp sang nước Nam Phi đến thành phố Cape Town rất đẹp. Ngoài khơi thành phố Cape town là hòn đảo Rocky Island nơi ngày xưa người ta đã giam giữ ông Nelson Mandela.   Ở ngoài đó người ta có để lại một số bút tích lá thư ông đã viết gửi cho những người đồng sự của ông khi ông còn bị giam cầm nhiều năm. Trong thời gian ông bị giam cầm nhiều năm ông bị hành hạ rất nhiều, như buổi chiều trời ngoài đảo rất lạnh họ bắt ông đi ra ngoài bãi biển để cào những rong biển và với chiếc áo tù thì rất lạnh, khi trời nắng chói chang buổi trưa họ bắt ông đi đập đá, do vậy sau này mắt ông bị hư là tại vì ánh sáng nhiều quá buổi trưa chói vào mắt ông. Tại sao người ta bắt ông phải làm công việc lao công như vậy, tại vì sự lao công khổ sai ở trong tù sẽ làm kiệt quệ đi sức lực của tù nhân và nhờ như vậy tù nhân không chống đối. Riêng trường hợp của ông Nelson Mandela lúc đó chính phủ Nam Phi theo chánh sách Apartheid (kỳ thị chủng tộc) họ xem ông như một trong những nhà lãnh đạo nguy hiểm nhất thành ra họ không giết ông nhưng họ làm cho ông bị mòn mỏi trong tù. 

Ông đã viết những giòng chữ rất đẹp từ nơi chốn ngục tù này ông nhắc những người đồng sự của ông là "chúng ta tranh đấu cho một đất nước Nam Phi được tự do bình đẳng, không phải chỉ riêng người da đen mà cho tất cả mọi màu da mọi chủng tộc" và ông cũng nói lên một điều là một trong những điều ông cố gắng ông muốn truyền đạt đến những người đồng sự với ông là mình tranh đấu vì một lý tưởng cao cả chứ không phải tranh đấu vì lý tưởng hận thù. 

Khi chúng tôi đọc những giòng chữ đó chúng tôi rất chua xót cho quê hương dân tộc Việt Nam, ngay trong bản quốc ca của chúng ta, quốc ca thời Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa và ngay cả quốc ca bây giờ mang màu sắc của hận thù, chúng ta ảnh hưởng truyền thống văn hóa của Pháp ảnh hưởng truyền thống văn hóa Marxist (Marxism). Và do ảnh hưởng như vậy nên chúng ta đã không có được  tâm thái khai phóng nhẹ nhàng mặc dù nền văn hóa của Việt Nam có những giai đoạn lịch sử rất đẹp, ví dụ như đời Lý, vua Lý Thái Tông đến thăm những người tù cảm thấy xót xa vì trời lạnh lẽo Vua sai đem mền đến cho người đó còn nói nhà vua thương dân giống thương con ngay cả những người tù có tội. Hay đời nhà Trần chúng ta biết có những vị tướng nhà Trần khi quân Nguyên đến họ đi theo quân Nguyên vì tham sinh qúi tử nhưng đến khi vua nhà Trần đã đánh đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi thay vì truy tố những người đó thì đã đem đốt hết tất cả những tờ biểu dâng lên nói về tên họ của những người đã thỏa hiệp đã đi theo ngoại bang chống lại quê hương dân tộc của mình. Họ đã làm một cuộc mà chúng ta gọi là cuộc khoan dung một cuộc khoan hồng hiếm có hiếm thấy ở trong lịch sử. Thật ra, người Việt Nam chúng ta không phải là dân tộc tàn bạo hung hăng nhưng chúng ta phải nói rằng một số những nhà lãnh đạo đương đại ảnh hưởng văn hóa của Tây Phương nặng quá nhất là văn hóa  Mác-xít (Marxism) rất bạo tàn. Chúng ta cứ nghe hoặc đọc những lời trong quốc ca, quốc ca của người Việt quốc gia ngày xưa cũng như của cộng sản sau này trong đó có những câu rất hận thù, tất cả các bài quốc ca của VN khi chúng ta đọc những điều đó  chúng ta mới cảm thấy là nhìn lại những bức thư nhìn lại tinh thần ông Nelson Mandela  ông đã đề xướng ở trong một quá trình rất dài trong lao tù tranh đấu chống lại chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc Nam Phi, chủ nghĩa Apartheid là một chủ nghĩa bạo tàn nhất thế giới. Chánh sách Apartheid đã khủng bố tiêu diệt giết chết không biết bao nhiêu người.

Một cách khác, khi chúng ta có dịp cân phân thì chúng ta thấy điểm đầu tiên đối với cuộc sống đó là ở trong lòng của chúng ta có khả năng để hóa giải hiềm hận hay không? Nếu có cái gì đó chúng ta có thể làm đẹp cho cuộc đời, nếu cái gì đó chúng ta có thể làm đẹp cho cuộc sống của mình, thì đầu tiên chúng ta cần đến một cõi lòng thanh thản, một cõi lòng ít phiền não, một cõi lòng không hận thù. Cuộc sống dễ dẫn đến hận thù, dễ dẫn đến đụng chạm, chung quanh chúng ta hàng ngày có trăm ngàn thứ làm cho chúng ta bực bội, giận dữ, hận thù. 

Một câu kinh Pháp Cú trong phẩm Song Yếu : 
"Nó đánh tôi, nó mắng tôi,
 nó hại tôi, nó cướp tôi. 
Ai ôm ấp niềm hận ấy
 hận thù không thể nguôi"

Bởi vì chúng ta cứ nghĩ chúng ta bị xúc phạm, chúng ta bị tổn thương, rồi từ chỗ đó chúng ta có lý do chánh đáng để nuôi dưỡng hận thù. Bài học này không phải dễ nuốt, nó rất khó nuốt, mỗi chúng ta đều phải tự mình đối diện, mình tự mình tiêu hóa được điều này.

Chúng tôi nhớ nhiều năm về trước khi Paltalk mới ra đời một trong những điểm khổ tâm cho chúng tôi khi cung thỉnh Chư Tăng vào rơom thuyết pháp thời đó có một số người vào phá hoại mấy rơom Phật Pháp, người ta vào chửi nói rất nặng nề. Và Chư Tăng, chúng tôi nói điều này không phải chúng tôi không kính trọng Chư Tăng ở VN, nhưng Chư Tăng thì quen thuyết pháp ở trong bối cảnh chùa chiền rất thanh tịnh rất tốt đẹp, Chư Tăng lên pháp tọa rồi Phật tử đọc thỉnh Pháp Sư, rồi thấy thuận nhân thuận duyên Chư Tăng thuyết pháp, đó là Chư Tăng quen như vậy. Rồi vô trong Paltalk ngồi nói chuyện với một số người mình không biết họ là ai và thỉnh thoảng họ chat lên những câu nó không ra gì những câu lộn xộn hay những câu chửi mắng xúc phạm đến mình tự nhiên Chư Tăng cảm thấy khó chấp nhận, đôi khi các vị bị sock. Tại vì sao vậy? Tại vì hội chúng không thanh tịnh tại sao mình thuyết pháp.

 Nhưng năm dài tháng rộng Chư Tăng làm việc trong rơom đã quen bây giờ chúng tôi có cảm tưởng như tất cả Chư Tăng khi gặp khủng bố hay phá hoại thì bình thường thôi, mình vẫn tiếp tục chương trình. Tại vì sao vậy? Tại vì chúng ta hiểu rằng đây là một thế giới nó là như vậy, cuộc đời nó là như vậy, paltalk là như vậy, tự paltalk là như vậy thì cái gì nó đến thì nó đến, khi nó đi thì nó đi. Ngài Ajahn Chah gọi là "Mặt hồ tĩnh lặng", hình ảnh đó rất dễ thương, có một cái hồ nằm trong rừng sâu rồi những con vật đến uống nước khuấy động mặt hồ và khi nó ra đi rồi mặt hồ không giận, mặt hồ không tiếp tục giữ lại sự khuấy động đó, mặt hồ trở lại sự bình lặng. Khả năng trở về nguyên vị an tịnh của mình trở về trạng thái không bị chi phối của mình đó là khả năng tuyệt vời. Chúng ta rất dễ dàng để lại những vết thương lòng, chúng ta rất dễ dàng để lưu lại những phiền não. 

Trong bài kinh này, Ngài Xá Lợi Phất Ngài nhắc đến câu Phật ngôn: "Khi mình muốn giữ sự hận thù mình nên hỏi nuôi dưỡng sự hận thù như vậy có lợi ích gì?" 

Chúng tôi lại không nghĩ như vậy, thí dụ có một người nào làm chúng tôi giận, chúng tôi nghĩ : "giận thì mình cứ giận, nhưng thứ nhất mình hỏi rằng mình nuôi giận như vậy được bao lâu?  và giận như vậy  có lợi gì cho mình? Mình giỏi lắm nuôi giận được 2 ngày, 3 ngày, 5 ngày, 7 ngày và nó cũng biến mất. Nhưng trong 2 ngày, 3 ngày, 5 ngày, 7 ngày như vậy thì mình khổ. Không phải chúng tôi không, đôi khi qúi Phật tử còn trách móc chúng tôi, thí dụ như  qúi Phật tử bực bội ai đó đem nói chuyện với chúng tôi muốn chúng tôi giận nhưng qúi vị muốn chúng tôi giận không phải một bữa mà là giận suốt đời luôn, có nhiều vị nói rằng tại sao Sư chỉ nói rồi sau đó Sư lại quên chuyện giận đó. Không phải chúng tôi quên, nhưng chúng tôi nhớ một chuyện, ví dụ như hôm nay chúng tôi đang ngồi nói chuyện với qúi vị ở đây sinh hoạt thay vì chúng tôi có được một giờ rất an lạc để ngồi nói chuyện với Chư Tăng Phật tử vào một buổi sáng, nếu trong lòng chúng tôi nuôi hận thù giận dữ ai đó thì thật sự chúng tôi không có an lạc được. Thành ra mình mất mát rất nhiều, khi mình giận mất mát rất nhiều. Người Trung Hoa nói một câu có nhiều người tâm đắc "Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn" thành ra họ thường nói hận thù ôm ấp cả một đời người, hận thù ôm ấp cả 10 năm, hận thù ôm ấp giai đoạn dài, mới nghe thì có vẻ hay ho nhưng thật sự không biết hay cái gì nhưng chúng ta có tuổi trẻ khoảng chừng 20 năm hay 10 năm, trong 10 năm 20 năm đó chúng ta ngâm tẩm trong độc tố của hận thù thì thật sự  chẳng đẹp gì hết chẳng có hay gì hết.

Có một thời gian dài người ta muốn cả một dân tộc, cả một thế hệ đều lớn lên ở trong sự thù hận, người ta khởi dạy lòng căm phẫn, căm phẫn đối với giai cấp, căm phẫn đối với thế lực này đối với thế lực khác, rốt cuộc bây giờ những thế hệ đi qua chúng ta nhìn lại rất tội nghiệp, những thế hệ đó đã tàn tạ trong hận thù, quê hương chúng ta trải qua thời kỳ như vậy. Trong khi chúng ta đi đến những dân tộc khác thì tuổi trẻ họ lớn lên trong sự hồn nhiên họ có thể hấp thụ được nền giáo dục tương đối tốt và họ có thể lựa chọn một con đường tương lai đẹp cho họ, mà đẹp cho họ cũng có nghĩa là đẹp cho cuộc đời, đôi khi chúng ta phải đặt lại vấn đề. 

 Chúng tôi đọc một đoạn hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê về sau này đoạn hồi ký đó cho chúng tôi thấy là một câu chuyện rất thú vị.

 Cụ là một người rất yêu nước. Đất nước chúng ta với thân phận nhược tiểu bị người Pháp cai trị cụ nuôi tâm hận do vậy khi cụ có đứa con trai đầu lòng cụ đặt tên Nguyễn Nhật Đức. 

 Tại sao đặt tên con là Nguyễn Nhật Đức? Nguyễn là họ của cụ, Nhật và Đức là nước Nhật và nước Đức. Cụ thấy sau thời Đệ Nhất Thế Chiến nước Đức một nước chiến bại bị đồng minh áp chế đủ điều nhưng chỉ trong vòng mươi năm họ đã vươn lên và trở thành một cường quốc. Nhật Bản một quốc gia Á Đông và thời đó cả Á Châu chỉ có Nhật Bản đứng lên sánh vai các nước Tây Phương do vậy cụ đặt tên cho con là Nguyễn Nhật Đức.

  Nhưng sau Đệ Nhị Thế Chiến cụ ân hận là cụ đã sùng bái hai quốc gia theo chủ nghĩa phát xít (Fascism). Cả hai quốc gia Nhật Đức theo chế độ quân phiệt phát xít (Fascism). Với sự hận thù và tham mộng cực đoan Đức quốc xã đã nhồi nhét vào trong lòng người Đức. Cũng như chế độ quân phiệt tại Nhật Bản đã phá hủy nền văn hóa đẹp của họ, đã phá hủy sự hoà bình của thế giới trong một giai đoạn nào đó và nó làm bao nhiêu thế hệ bị ảnh hưởng. 
  
  Điều đó chẳng lợi ích gì cho ai hết, người ta ở một giai đoạn nào đó họ rất ưng họ rất thích nhưng nếu nghĩ lại cho kỹ những bài học lịch sử chúng ta mới thấy đúng như lời Đức Phật dạy là không có lợi ích gì hết. 

Một người trẻ tuổi lớn lên nên dành cho họ một món quà, món quà đó là gì, món quà đó là sự hồn nhiên vô tư.
  
   Đôi khi chúng tôi cũng không biết là nên nói như thế nào. Ở chùa có một số Phật tử những vị này luôn nghĩ họ rất hay rất giỏi, khi có Phật tử nào khác đến họ cũng ráng để truyền đạt nhồi nhét những phức tạp những lộn xộn, chuyện ông này bà kia, vì họ nghĩ họ cung cấp tin tức cho những người này nhưng thật sự họ đang làm cho những người này phiền não. 
   
    Một món quà tốt nhất chúng ta dành cho nhau là một nụ cười thân thiện và một tấm lòng thanh thản chứ không phải một món quà tặng cho cuộc đời bao nhiêu rác rưởi, bao nhiêu những bẩn thỉu, bao nhiêu những phiền toái mình trút lên người bạn của mình. Nhưng nhiều khi chúng ta không thấy được điều đó, do đó câu Đức Phật đặt ra là "mình phải đặt câu hỏi cái đó có lợi ích gì cho mình" và cũng đặt câu hỏi "cái gì làm lợi ích cho người khác". 
Nhiều người không bao giờ nghĩ rằng những gì họ nói những gì họ truyền đạt có hại ra sao cho mọi người. Khi chúng tôi còn nhỏ ở trong nhà có một phép lịch sự cha mẹ dạy là khi mình ăn cơm trong lúc ăn mình không nói những chuyện không sạch sẽ thí dụ như đi nhà vệ sinh, chuyện xác chết v.v... tại vì mình nói như vậy người ta ăn cơm không ngon. Chuyện đó cũng có thể áp dụng trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Chúng tôi thưa qúi vị, giả xử bây giờ chúng ta có 2 tiếng gặp nhau ở tại đây và thay vì chúng ta ngồi bàn chuyện Phật Pháp chúng ta bàn chuyện ông này bà kia, chuyện người này người kia có lẽ chúng ta không an lạc. Qúi vị đồng ý không? Thì tại sao chúng ta không tặng cho nhau món quà đẹp nhất tốt nhất ? Chúng ta tặng cho nhau tối thiểu là sự bình an yên tĩnh, tối thiểu là cái đẹp của cuộc sống. 
Chúng ta chịu khó lắng nghe lời Đức Phật dạy. Ngài Hộ Giác Ngài có nói một câu Ngài nói "mình không có khôn hơn Đức Phật". Đôi khi mình nghĩ mình khôn hơn Đức Phật mình đem điều này điều khác nhưng nếu mình nghĩ mình không khôn hơn Đức Phật thì ráng chịu khó lắng nghe lời Ngài dạy, ráng chịu khó thử một lần để mình làm coi có được không.
Giả xử như Đức Phật dạy chuyện đó là chuyện phiền não mình ráng nghe thật kỹ và mình nghĩ đó là phiền não, phiền não là cái gì phiền phức, cái gì thiêu đốt, cái gì làm cho mình phiền lụy, thì mình thử xem chuyện đó nó ra sao, bởi vì sống ở trong cuộc đời này đôi khi mình nhìn lại những người Phật tử nhất là chúng ta ở trong mùa lễ Vesak Tam Hợp Khánh Đản chúng ta nên mừng ít nhất con người chúng ta còn có duyên, có phước, được sống, được lắng nghe, được hít thở lời dạy của Đức Phật. 
 
Đức Phật Ngài có dạy những điều rất đẹp những lời dạy đó tuy rằng rất xa xưa hơn 2500 năm về trước nhưng cho đến hôm nay vẫn đẹp, nếu chúng ta chịu khó lắng nghe, chịu khó đọc cho kỹ thì chúng ta thấy rằng Đức Phật Ngài đưa chúng ta trở về với một vấn đề căn bản đó là vấn đề nội tại thay vì để ý chuyện người khác quá mình tự vấn tự hỏi chính trong lòng mình như thế nào, chẳng những vậy Đức Phật đưa chúng ta trở về vấn đề căn bản là chuyện đó có lợi ích hay không lợi ích, nó mang lại an lạc hay mang lại khổ đau. Những chuyện đó hàng ngày chúng ta không chịu suy xét. Mình nghĩ mình là người ưu thời mẫn thế, là người có đầu óc kinh bang tế thế, là người nghĩ đến chuyện lớn của thiên hạ. Nhưng chúng ta không làm chuyện lớn, chúng ta chỉ làm lớn chuyện thôi. 
 
Tại vì sao vậy? Chuyện đơn giản là chúng ta trở về đặt vấn đề mình nghĩ như vậy, mình làm như vậy, mình nói như vậy có lợi hay không có lợi. Chỉ đơn giản vậy thôi. Và chúng ta cũng không cần phải nói chuyện xa xôi, một buổi sáng thức dậy mình làm cái gì, mỗi buổi tối trước khi đi ngủ mình làm cái gì, và vì vậy ở trong rất nhiều trường hợp chúng tôi thấy rằng những câu tự vấn đặc biệt ở trong kinh đề cập đến đem lại cho chúng ta một khung trời rộng mở.

 Bây giờ chúng ta trở lại bài học. Thật ra bài học này đã được trình bày ngày hôm qua ở một phương diện tiêu cực tức là những nguyên nhân làm cho sanh khởi sân tâm sanh khởi oán thù, hôm nay chúng ta học ngược lại làm cách nào để chúng ta hóa giải điều đó. Câu hỏi tiên quyết đặt ra ở đây chúng ta hỏi điều đó có lợi ích gì cho chúng ta. Chúng ta nói chữ lợi ích ở đây là có làm cho chúng ta an lạc hơn không, có làm cho những người chung quanh chúng ta an lạc hơn không, có làm cho chúng ta sáng suốt hơn hay làm cho chúng ta mê tối hơn, có làm cho chúng ta thanh thản hay làm cho chúng ta căn thẳng hơn? Những câu hỏi như vậy đưa chúng ta trở về với những vấn đề rất căn bản. Đôi khi chúng ta quên đi những vấn đề căn bản đó.

  Cái đẹp của Phật Pháp là Đức Phật dạy về sự khổ  và sự diệt khổ. Và sự khổ nó rộng lắm nhưng cái khổ do phiền não mang lại thì có rất nhiều trong đời sống nếu chúng ta hiểu được điều đó, hiểu được một phần nào thì nó giúp ích cho chúng ta phần đó, luôn luôn là như vậy, tất cả những vấn đề của đời sống đối với người tu tập đối với hành giả luôn luôn được đề cập đến từ ở trong thế giới nội tại từ trong lòng của mình hơn là ở bên ngoài. 
  
  Bây giờ mình gặp bao nhiêu chuyện rắc rối có phiền não gì thì ngồi xuống tự hỏi ở trong giờ phút này tâm tư mình như thế nào. 

Ngài HT Hộ Giác Ngài thường nói một câu, Ngài nói rằng:

 "Mình làm việc đôi khi mình không nên đặt quá nhiều vấn đề chuyện đó sẽ thành công lớn thành công nhỏ hay thất bại mà nên đặt vấn đề tâm mình có lòng thành hay không,  chúng ta có lòng thành hay không?"

 Hồi chúng tôi mới gặp Ngài nghe Ngài nói như vậy chúng tôi không để ý nhưng lâu ngày cảm thấy rất thấm thía điều đó. Tâm thành ở đây tức tâm của chúng ta có đủ sự tha thiết, đủ sự thành tâm, đủ sự nhiệt thành, đủ sự gắng bó. 

Mình tự hỏi tâm mình khi mình đặt vấn đề là "tâm mình có lòng thành hay không" thì tương tựa như câu nói là chúng ta phải tự hỏi là: "điều đó có lợi ích gì hay không?". 

Tại vì sao vậy? Nó đưa chúng ta trở về vấn đề rất căn bản thiết thực ở trong lòng của chúng ta, đôi khi, chúng ta nên nhớ rằng người làm khổ mình nhiều nhất đó là chính mình, người làm khổ mình làm cho mình bị mê mờ phiền não nhất đó chính bản thân của chính mình, tại vì mình cho phép phiền não, mình nuôi dưỡng phiền não và mình có hàng trăm hàng ngàn lý do để mình nói cái phiền não như vậy là đúng  và chánh đáng. 

Nhưng nên đặt trở lại là "điều đó có lợi ích gì cho mình nó có làm cho mình khổ thêm hay không" Và lấy cái vui cái khổ để chúng ta có thể bắt mạch chúng ta có thể dùng nó như những tín hiệu cho chúng ta biết giữa đúng hay sai. 

Chúng ta đọc bài kinh Kalama Đức Phật Ngài dạy những người Kalama  làm thế nào để nhìn sự việc để phán đoán sự việc trong đó có những câu như "việc đó là việc có làm tăng trưởng lòng tham sân si. Lợi người lợi mình hay lợi cả hai. Hại người hại mình hay hại cả hai. Và quả của nó có an lạc hay quả dẫn đến đau khổ".

 Khi chúng ta đọc những điều đó đôi khi người ta dùng danh từ thực dụng, đạo Phật rất thực dụng. Nhưng thật sự thì tinh thần của đạo Phật là chúng ta nên nhớ cái kh, bài học về khổ là lớn, cái khổ mà do cái nhìn tà vại, cái khổ do phiền não, cái khổ đó là những cái khổ chúng ta có thể vượt qua được có thể tránh được, khổ đó không cần thiết.

Một cách tóm tắt. Khi nào chúng ta có những chuyện rất bực bội chúng ta thử ngồi đọc lại bài kinh này đọc một cách rất thú vị, đó cũng là một cách tu, đem ra để ngay trước mặt, chúng ta vừa đọc bài kinh này và vừa đem vào trong lòng để hỏi rằng mình giận như vậy, mình bực bội như vậy, mình hận thù như vậy có lợi cho mình cái gì, có làm cho mình bổ bề ngang bổ bề dọc. có làm cho mình có một ngày an lạc hay không,  có làm cho mình sáng sủa hơn hay không,  có làm cho đời sống mình vui hơn hay không? Mình tự đặt câu hỏi chúng ta sẽ thấy rằng những điều gì Đức Phật dạy chúng ta ở đây có một giá trị lớn để mang lại hạnh phúc thật sự cho mình  ./.