Thursday, December 3, 2015

Kinh Kiêu Mạn - Phẩm Sứ Giả Của Trời - Tăng Chi Bộ

 Kinh Kiêu Mạn  - Phẩm Sứ Giả Của Trời - Tăng Chi Bộ 

 Bài giảng trong Lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 29-7-2015, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Ngày nay trong sự tu học chúng ta thường đề cập đến pháp môn, đến tông phái, đến các bộ kinh . Nhưng ở một môi trường nào đó, thí dụ như trong trường thiền hoặc giả trong đời sống cá nhân hoàn toàn thì sự việc nằm ở tâm lý của chúng ta. Về phương diện này Đức Phật Ngài soi sáng cho chúng ta rất nhiều điều.

Hôm nay chúng ta nói về hai trọng điểm: 
1) Một người làm ác qua thân khẩu ý  do sự say sưa trong kiêu mạn.
2) Và một vị tỳ kheo từ bỏ đời sống phạm hạnh để hoàn tục trở về đời sống thế tục cũng phát xuất từ sự say sưa trong kiêu mạn.

Dĩ nhiên sự kiêu mạn ở đây không giống như sự kiêu mạn bình thường. Một người muốn chứng tỏ cho người khác thấy mình giàu, chúng ta nghe chuyện một số người ở Trung Quốc bỗng nhiên rất giàu, khi giàu như vậy họ chơi ngông để chứng tỏ mình giàu, thí dụ họ đốt tiền hoặc chiếc xe hơi loại đắc tiền họ dùng cây gậy bóng chày (baseball)  đập vào xe.  Hoặc giả một người vỗ ngực nói rằng tôi có học vị tiến sĩ những người khác không có. Đó là sự kiêu mạn mình có thể thấy ở bên ngoài. 

Nhưng sự kiêu mạn ở đây không biểu hiện trong hình thức kiêu căng ở bên ngoài, mà ở đây biểu hiện với hình thức ỉ lại, đôi khi nó không cần tới ai chỉ một mình thôi, mình quá ỉ lại. Ví dụ như bây giờ chúng ta lo chơi không lo tu tập, tại vì ẩn tàng trong tâm ý chúng ta mình không chết ngày mai, mình không chết năm tới và mình còn sống mấy chục năm nữa. Nếu ngày mai mình biết  sẽ chết thì ngày hôm nay mình sẽ tập trung vào làm việc gì đó. Nhưng thật sự chuyện khẳng định mình còn sống mấy chục năm nữa vốn không có cơ sở, không có gì chắc chắn mình sống mấy chục năm nữa, không có. Đó  là một sự say sưa hay một sự kiêu mạn.

Thật ra, chữ kiêu mạn ở đây dùng cũng một phần nhưng chúng ta nói ở đây là sự ỉ lại, mình có vẻ mạnh mẽ ở trong sự ỉ lại đó, đoan chắc trong sự ỉ lại đó và sự đoan chắc trong sự ỉ lại đó có thể nói trong ngôn ngữ khác là "say sưa trong kiêu mạn". Giả sử một người làm việc ác, đi cướp nhà băng chẳng hạn, thì nếu họ nghĩ khi cướp nhà băng cảnh sát sẽ tới bao vây và bắt họ bỏ tù, hoặc giả trong lúc đấu súng với cảnh sát họ sẽ chết thì khi nghĩ chuyện đó họ không đi cướp nhà băng, đâu có ai muốn từ đời sống tự do bên ngoài mà bước vào nhà tù hay phải bị chết. Nhưng ngay lúc họ đi cướp nhà băng họ có một sự ỉ lại là mình làm nhanh mình sẽ rời khỏi nhà băng với một số tiền lớn cho dù cảnh sát truy nã mình lợi dụng đám đông để chạy thoát với số tiền lớn mình sẽ làm việc này việc kia. Đó chúng ta gọi là chủ quan. Khi mình chủ quan thì mình suy nghĩ việc gì đó một chiều thôi, mình chủ quan là mình đoan chắc việc gì đó vốn nó không có cơ sở rõ ràng. Cũng giống như chúng tôi thường gặp một sự việc, có những người cách đây một năm họ rất tốt nhưng bây giờ tự nhiên họ bị tai biến mạch máu não phải đưa vào bệnh viện hay họ bị ung thư và sớm ra đi. Thì mình ngồi nhìn lại cách đây một năm họ không biết họ sẽ bị chuyện đó, bản thân chúng ta không ai nghĩ như vậy, khi chúng ta khỏe mạnh chúng ta nghĩ mình sẽ sống lâu, mình sẽ thế này thế kia. Chúng ta gọi đó là sự kiêu mạn của sự sống. 

Kiêu mạn sức khỏe, chúng ta nói ở một người luôn luôn tự tin vào đôi tay của mình, mình làm cái gì cũng lanh lẹ, mình làm cái gì cũng mạnh mẽ, mình làm cái gì cũng có sự hơn người về thể lực. 

Kiêu mạn về tuổi trẻ, khi mình còn trẻ, không phải chỉ đẹp chỉ khỏe, sự trẻ trung làm cho mình cảm thấy kiêu hãnh tự tin là cuộc đời mình còn dài rất dài  chưa vội vã để chuẩn bị sự ra đi. 

Sự thật nếu chúng ta đọc vào trong kho tàng kinh điển Phật Pháp chúng ta thấy những pháp môn như quán tưởng về Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, quán tưởng về sự Chết, những điều đó có hàm tàng một ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta khiêm tốn hơn, để chúng ta chấp nhận một thực tế gọi là vô định, để chúng ta không đinh ninh rồi nó sẽ như vậy như vậy. 

Sự đinh ninh đó tương tự như một người đi vào rừng với đôi chân rất khỏe nghĩ rằng mình khỏe khoắn  đi trong rừng không sợ  gì hết. Nhưng kỳ thật những nguy hiểm đang chờ mình ở trong rừng nó không hẳn chỉ dựa trên sức khỏe của mình mà còn dựa trên những yếu tố khác nữa, thí dụ bị một con rắn cắn hay bị một cơn gió độc hay bị một con mãnh thú tấn công. Thì sự vô định của khu rừng không thể được trả lời bằng một vài yếu tố như sức khỏe của mình hay sự nhanh nhẹn của mình mà chúng ta cũng phải cẩn thận những việc khác nữa.

Ở Mỹ người ta thường ỉ lại vào bảo hiểm, lý do các công ty bảo hiểm làm ra tiền vì họ bán cho người ta sự yên lòng. Thí dụ, nếu xây nhà ở bờ biển mình chịu tốn thêm ít tiền mua bảo hiểm lỡ có bão đến làm sập thì sẽ có hãng bảo hiểm đền, nếu mình chết đi thì bảo hiểm nhân thọ sẽ mang một số tiền lớn cho người thân của mình v.v... và v.v... Chuyện đó cũng có thể xảy ra nhưng thú thật mà nói mọi sự vật không có đơn thuần là chúng ta có thể đoan chắc, có thể ỉ lại, có thể đinh ninh ở người thân của mình, ở bảo hiểm ở sức khỏe, ở tuổi trẻ .

Và ở đây nói lên một yếu tính của người tu tập và người không tu tập. Người không tu tập thì cứ nói: "Mặc dầu mình không nói ra lời nhưng trong lòng mình nghĩ những chuyện như vậy sao có thể xảy ra được". Nhưng một người có tu tập hiểu cái gì cũng có thể xảy ra được và điểm này khó chứ không phải dễ để suy nghĩ. 

Lấy một ví dụ chúng tôi thường đi máy bay. Tâm lý của những người đi máy bay thường suy nghĩ: "Máy bay của Mỹ với sự quản trị dòm ngó của FAA là cơ quan hàng không của liên bang thì vấn đề bảo trì tiêu chuẩn rất cao và họ xử dụng một ê kíp thợ máy rất tốt những đồ phụ tùng rất tốt, quản trị thật tốt, và có rất nhiều năm hàng không của Hoa Kỳ mặt dầu có hàng bao nhiêu chuyến bay hàng bao nhiêu triệu người đi nhưng rất an toàn họ dựa trên những sự thống kê và từ chỗ đó họ nói rằng ở Mỹ đi máy bay an toàn không có gì phải lo". Thì cũng có thể nghĩ như vậy để yên tâm nhưng thật ra thì nếu nói đi máy bay hoàn toàn không có gì để lo vì lý do máy bay của Mỹ  v.v ... và v.v... Thật sự lịch sử hàng không của Mỹ cũng có nhiều tai nạn chứ không phải là không có. Hoặc giả hãng Malaysia Airline bị mất tích một chiếc và một chiếc bị bắn hai điều đó không liên quan đến máy móc và chúng ta cũng chưa biết ra sao nhưng có thể nói một chiếc bị hoả tiễn bắn và  chiếc máy bay MH370 do sự điều khiển sao đó cho đến giờ này người ta cũng chỉ biết  nó đổi lộ trình bay và cuối cùng rớt ở đâu đó. 

Điều chúng tôi muốn nói tại đây  trên phương diện tâm lý ở trong cuộc sống của chúng ta có những trấn an có những điều làm  chúng ta an lòng. Như chúng tôi nói mình lên máy bay mình nghĩ những con số thống kê, thật ra đi đó đi đây bằng máy bay an toàn nhất, an toàn hơn cả xe hơi, xe hơi lái trên xa lộ mình thấy mình đang ở dưới đất nhưng tai nạn đụng xe chết nhiều hơn máy bay. Hay hoặc giả 6 tháng 1 năm mình đi khám tổng quát một lần bác sĩ nói sức khỏe tốt mình yên tâm sống thoải mái sống vui vẻ. Nhưng kỳ thật khi chúng ta yên tâm sống vui vẻ thì ở trong đó có một manh nha của một điều gì mình không biết là do sự ỉ lại. Chúng ta không có thực sự nỗ lực làm lành lánh dữ, chúng ta không có nỗ lực để đi theo con đường các bậc Thánh gọi là chuyên chú nỗ lực, chúng ta rơi vào trạng thái dễ ngươi thành ra cẩu thả tại vì mình ỉ lại. Lấy trường hợp mình làm cái gì người khác cũng chỉ trích mình thì làm rất tốt, cân nhắc cẩn thận, nhưng khi mình nghĩ bây giờ mình làm vua một cõi rồi hay những người chung quanh toàn người thân mình chắc chắn không ai chỉ trích mình thì đâm ra buông thả, cái buông thả đó thành dễ nguơi và cái dễ người đó kéo theo nhiều ác pháp.

Vấn đề đơn giản của một người làm ác như hồi nãy chúng tôi nói với qúi vị những người cầm súng đi cướp nhà băng  thật ra cơ hội họ thoát khỏi luật pháp rất ít, tính ra trong 10 vụ cướp nhà băng chỉ có 3 lần người ta thoát khỏi nhưng sau đó cũng bị bắt trở lại, nhưng 7 lần hoặc không chết vì đấu súng với cảnh sát thì cũng bị bắt bỏ vào tù. Nhưng khi một người đi cướp nhà băng họ chỉ nghĩ đến một chuyện là mình sẽ thoát, cứ nghĩ đến chuyện là mình sẽ thoát là họ ỉ vào sức khỏe của họ, ỉ vào tài trí của họ, ỉ vào sự lanh lẹ của họ. 

Đức Phật Ngài là bậc đạo sư, Ngài soi sáng cho chúng ta một góc tối của nội tâm mình, cái góc tối đó là sống bằng sự đinh ninh, sống bằng sự ỉ lại, ở đây trong ngôn ngữ của bài kinh này gọi "say sưa trong kiêu mạn", đoan chắc là như vậy, đời là như vậy, mình còn trẻ mà sợ gì, mình đang sống vui sống khỏe mà sợ gì. Sống vui, sống khỏe, sống trẻ trung không có nghĩa bảo đảm mình không bị cái chết đến, không có nghĩa mình có thể nắm chắc được vận mạng trong tay.

Chúng ta thích được mơn trớn, được ru ngủ. Chúng tôi nói điều này có thể có vài vị hơi phật lòng nhưng vì trong nội dung bài kinh chúng ta cũng phải nói: Nhiều khi sự thờ phượng của phần lớn số người thí dụ thờ Thần Tài, thờ Quan Công, thờ bà Mẹ sanh, thờ Đức Thế Âm Bồ Tát, thờ Phật, thờ Chúa trong nhà chẳng hạn, chuyện thờ phượng đó không phải  vì niềm tin mà sự thờ phượng đó chỉ mong mang lại cho mình sự bình an, và sự bình an đó cho dù có thật hay không có thật đi nữa đôi khi mình nghĩ có trời Phật gia hộ, có thần thánh gia hộ, có thần linh gia hộ ít nhất mình cũng yên lòng hơn là không có.

Ở trong văn hóa của người Trung Hoa ảnh hưởng người Việt Nam cũng nhiều, người ta đặc biệt rất tin vào một số những yếu tính của phong thủy, ví dụ như năm đó tuổi đó đeo xâu chuỗi màu đó bằng loại đá màu đó thì mình sẽ bình an sẽ may mắn, và khi người ta mua xâu chuỗi đó mặc dầu hơi mắc tiền một chút nhưng đeo vào họ cảm thấy làm ăn may mắn. Đó là sự tự kỷ ám thị, đó là tâm lý, chúng tôi lấy ví dụ họ có một loại chuỗi ngọc bội bằng đá qúi có hột lớn hột nhỏ và có ai đó nói rằng năm nay anh hay chị cần mang chuỗi bằng loại đá như vậy an toàn may mắn, mình đi mua xâu chuỗi về  đeo  có cảm giác mình đang tự bảo vệ chính mình. Ở trong phong thủy là như vậy, nó cho mình một ít vị ngọt, vị ngọt của nó là một vị ngọt của sự trấn an, vị ngọt của nó là sự bảo đảm. Nhưng nếu có ai nói với chúng ta buổi tối đi ngủ buổi sáng thức dậy mình nhớ biết vô thường đến bất cứ lúc nào thì mình nản lòng lắm. Tại vì tại sao mình sống phải nghĩ đến chuyện bấp bênh vô định như vậy? Nhưng ở trên thực tế thì cái chết là một điều chắc chắn, sự vô thường là một điều chắc chắn, sự bất định là điều chắc chắn. Chúng ta không thích nghe điều này, bởi vậy Đức Phật Ngài dạy Phật Pháp dành cho người có trí chứ không phải dành cho người không có trí. 

 Chúng tôi muốn nói ở đây một thứ cảm giác mà người ta cho mình cảm thấy yên lòng mình cảm thấy sung sướng tương tựa như có nhiều người nói một số người họ sống trong tình yêu bằng tai họ thích nghe những lời ngọt ngào, họ nghe lời ngọt ngào họ cảm thấy yên tâm nhưng cái đó không có gì bảo đảm chắc chắn hết, không ai dùng lời nói ngọt ngào hứa hẹn với người này người kia suốt cuộc đời nói như vậy nhưng mà họ vẫn thích nghe. Trong cuộc sống của chúng ta tại sao chúng ta thường hay bị mê hoặc bởi những chính trị gia là bởi vì khi họ ứng cử họ vẽ lên một bức tranh thật đẹp, họ hứa có những thay đổi, họ lên họ sẽ làm thế này thế kia, do vậy bao nhiêu người bỏ phiếu cho người đó tại vì họ thấy có sự hứa hẹn. 

Đức Phật Ngài muốn nhắc chúng ta một yếu tính rất nhỏ: từ sự đinh ninh đó, từ sự đoan chắc đó cảm giác hầu như chắc chắn thì chúng ta sống buông thả, sống buông thả như một công tử lớn lên ở trong gia đình có nhiều tiền bạc không tha thiết mình nên có nghề phòng thân, mình nên để dành tiền bạc bởi vì cha mẹ không lột da sống đời hoài với mình, và nếu cha mẹ nằm xuống rồi thì mình không còn gì nữa. Ngay cả chúng tôi làm việc trong một tổ chức như giáo hội chẳng hạn, người ta sẵn sàng để đập đổ nhau, người ta sẵn sàng tranh đoạt nhau, người ta sẵn sàng bêu xấu nhau nhưng không bao giờ họ nghĩ ảnh hưởng đến uy tín của giáo hội, ảnh hưởng đến Phật giáo là ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Tại vì chúng ta không thấy điều đó chúng ta chỉ thấy mình phải đạt được cái gì mình muốn.

Ở trong một số tai nạn xảy ra trên thế giới đôi khi gây chết người không phải hàng chục mà hàng trăm người. Đôi khi sự việc xảy ra tại một nơi đông đảo người, chẳng hạn nơi hành hương có vài ngàn người họ tập trung bỗng nhiên có người kêu cầu sập hay lửa cháy thì tất cả mọi người lo thoát hiểm, nếu người ta không hoảng hốt bình tỉnh từ từ rút lui sẽ không tạo ra nhiều cái chết nhưng trong lúc hỗn loạn người ta đạp lên nhau để chạy tạo ra rất nhiều cái chết, chết một cách oan uổng, rồi sau khi trở lại bình thường có hàng mấy trăm người chết vì bị dẫm đạp như vậy. Cũng không thể bắt lỗi ai được, những sự việc đó xảy ra thường do sự ỉ lại. 

Chúng tôi đã có mặt ở vài quốc gia như Ấn Độ chúng tôi luôn luôn tránh để cho bản thân của mình và phái đoàn không có mặt ở những chỗ quá đông người, tại vì mình đã sống ở Mỹ mình hiểu cảnh sát của Ấn Độ nhà chức trách của Ấn Độ không chuẩn bị tốt cho những trường hợp có những biến cố bất ngờ xảy ra. Thí dụ, tại Mỹ người ta làm sân khấu đòi hỏi nhiều điều luật phải tuân theo, như vấn đề chữa lửa chẳng hạn, về cửa thoát hiểm, cửa đó không được mở vô mà phải mở ra, khi điện bị cúp người ta vẫn còn có những ngọn đèn gọi là đèn back up, ngọn đèn ít nhất sáng trong thời gian nào đó để người ta nhìn thấy lối đi. Họ đòi hỏi rất nhiều thứ, và khi chúng ta nghe họ đòi hỏi mình hoàn toàn chán ngấy mình không thích chút nào hết. Nhưng kỳ thật những luật lệ đó giống như lời Đức Phật dạy là để cho chúng ta có sự dự phòng những biến cố xảy ra trong đời ngoài sự kiểm soát của mình.

Ở Houston ngôi chùa Liên Hoa có xây một hội trường rất lớn, xây xong cho đến ngày nay vẫn chưa  được giấy phép xử dụng, có lần chúng tôi đến thấy từ sân khấu cho đến những yêu cầu về vấn đề an toàn thật sự vượt xa cái nghĩ của mình, ví dụ như hệ thống chữa lửa gọi là sprinkler một khi có hoả hoạn nó tự động phun nước, thì mình thấy hệ thống đó giữa hội trường mênh mông ít có bao giờ mình nghĩ đến trường hợp hỏa hoạn xảy ra nó phun nước xuống như vậy. Cách suy nghĩ của chúng ta phải thay đổi. Ở những quán cafe, quán bar đôi khi chúng ta nghe nói khi hỏa hoạn xảy ra không có lối thoát mang đến cái chết hàng mấy chục người. Đúng là mình quá xem thường nguyên tắc an toàn. Hay hoặc giả  chúng ta nghe nói những chiếc phà bị chìm khi họ điều tra ra nguyên nhân do nguyên tắc an toàn bị coi thường. 

Ở đây chúng tôi muốn nói một điều, Đức Phật Ngài dạy chúng ta nên coi chừng sự ỉ lại của mình, những lúc nguy hiểm mình ít làm những sai lầm, ở trong cơn phong ba bão tố con người thường rất cẩn trọng và do sự cẩn trọng đó khả năng vượt qua những khó khăn đó dễ dàng. Kinh nghiệm làm việc cho thấy càng đối diện với những khó khăn càng gặp phải những hoạn nạn  con người càng cẩn trọng. Mình chết không phải lúc hoạn nạn mà mình chết là lúc mình đang thành công. Tại vì sao? Tại vì lúc đó mình chễnh mãng, mình dễ ngươi, mình dễ tạo ra nhiều kẽ hở để lộ ra nhiều khuyết điểm và từ chỗ đó dẫn mình đến nhiều sự việc mình tự tạo cái họa cho chính mình. 

Đức Phật Ngài nhắc chúng ta say sưa trong sự kiêu mạn là một trạng thái đinh ninh, một trạng thái chủ quan, mình còn trẻ, mình còn khỏe, mình sống với nhiều phương tiện, mình đang sống trẻ, sống khỏe, sống vui thì đâu có chuyện gì phải lo. Thật ra, không có việc gì bảo đảm mình trẻ, mình khỏe, mình vui là mình sẽ hoàn toàn sống tốt. Và còn tệ hơn nữa Đức Phật dạy rằng chính vì thái độ đó chúng ta tạo ra nhiều ác nghiệp. Những người tạo ác nghiệp nếu họ có nghĩ đến điều này thì họ không tạo ác nghiệp.

Ngay cả một vị Tăng sĩ, một vị tu sĩ rời bỏ học Phật Pháp hoàn tục trở về đời sống bình thường tại vì họ cũng quá tin vào sức khỏe, quá tin vào sự tháo vát của bàn tay mình. 

Khi chúng tôi đi vượt biên lúc đó còn là một vị Sadi lên đảo gặp vị Sư tu được 18 hạ. Lúc mới lên trại tị nạn chúng tôi xin vị này truyền giới lại bởi vì trên đường đi vượt biên, chúng tôi xem như vị này như Thầy cho tu Sadi. Sư là vị sư người Việt gốc Miên sống ở Sóc Trăng. Vị này rất giỏi, rất kiên trì làm việc chỉ trong vòng 7 năm cất được 3 ngôi chùa ở ba thành phố San Diego, Long Beach, Riverside, hầu như một tuần chạy tới chạy lui và làm được rất nhiều việc. Chúng tôi rất mừng, chúng tôi rất vui thấy vị này qua Mỹ làm việc với cộng đồng người Campuchia tốt như vậy. Đến một ngày chúng tôi nhận được tin là vị này hoàn tục. Người Campuchia như người Thái Lan họ có phong tục tu gieo duyên, đối với một vị Sư hay vị Sư Cả hoàn tục là chuyện bình thường dù Phật tử có buồn nhưng họ chấp nhận. Câu chuyện rất đơn giản, vị này trong một chuyến đi về Campuchia gặp một người phụ nữ trẻ mới có trên dưới 30 tuổi trong khi vị này đã 65 tuổi nhưng rồi thương rồi hoàn tục ra đời. Và bây giờ chúng tôi gặp lại vị này trên 70 tuổi, đời sống rất khổ, con thì nhỏ, vợ ly dị bỏ đi lấy chồng khác, đời sống vị này ra ngoài đời buồn hẩm hiu. Vị này nói với chúng tôi: "Sư Giác Đẳng, Sư ráng cố gắng tu, ở ngoài đời giây phút nào đó mình yếu lòng mình nghĩ nó vui nhưng có trăm cay ngàn đắng". Chúng tôi nghĩ vị đó nói với chúng tôi bằng tất cả sự chân thành của mình, chúng tôi hoàn toàn hiểu một vị trên 60 tuổi tạo lập 3 ngôi chùa phải có nhiều khả năng tự tin lắm, tự tin mình có khả năng và đủ điều kiện để xây dựng cuộc sống, mình làm việc mệt mỏi quá bây giờ mình gặp người mình thương thì mình bắt đầu cuộc sống mới. Nhưng cuộc sống không phải như vậy, tại vì cái già nó đến, rồi cuộc đời ở bên ngoài đâu phải là mình thương người đó rồi mình có thể đáp ứng được tất cả, rồi nó ra bao nhiêu thứ, thêm con cái hai đứa cũng nheo nhóc mà bản thân của mình cũng khổ sở thì tự nhiên chúng tôi lại nhớ đến bài kinh Đức Phật dạy chúng ta đọc ngày hôm nay, đôi khi mình làm một cái quyết định gì đó tại vì mình quá tin tưởng vào việc đó, mình quá tự hào vào việc đó, mình quá hãnh diện vào việc đó hay mình quá đinh ninh là chuyện đó xảy ra như mình sắp xếp, nó như vậy như vậy, thật ra cuộc đời không phải như vậy, chúng ta sống chúng ta cảm tưởng như mình còn mấy chục năm nữa để sống và mình chắc chắn sẽ khỏe hoài và sống như mình sẽ trẻ hoài không già, nhưng kỳ thực không phải như vậy. 

Chúng tôi biết rằng nói điều này có nhiều Phật tử không thích bởi vì trong lòng qúi vị nghĩ chuyện khác. Khi Đức Thế Tôn lớn tuổi có lần tôn giả Ananda xoa tay chân cho Đức Thế Tôn, Tôn Giả nói lên cảm xúc bồi hồi "Đức Thế Tôn đã già quá rồi". Bởi vì, Đức Thế Tôn Ngài là một vị có hảo tướng, 32 đại trượng phu tướng và khi Ngài còn khỏe Ngài thật sự đẹp tướng hảo quang minh, nhưng ngũ uẩn của Ngài theo thời gian cũng già đi. Dĩ nhiên qúi vị không tin Đức Phật già, chúng ta thấy ngay cả hôm nay người ta vẽ hình Đức Thế Tôn lúc viên tịch còn trẻ trung không phải hình ảnh của một người lớn tuổi, chúng tôi chưa thấy ai vẽ hình ảnh Đức Thế Tôn lúc viên tịch già, tại vì chúng ta nghĩ rằng Đức Thế Tôn là một vị Phật, Ngài luôn sống với 32 đại trượng phu tướng, tướng hảo quang minh như vậy. Nhưng chúng ta có bao giờ nghe Đức Phật Ngài dạy: "Này Ananda, thân của Như Lai giống như chiếc xe vua  đã cũ, chiếc long xa cũ" và Đức Phật Ngài luôn luôn nhắc thân ngũ uẩn của chúng ta là vô thường. Thật ra chúng ta không muốn nghĩ đến hình ảnh của Đức Phật bị già và bản thân của mình cũng không muốn nghĩ đến, nhưng thật sự nó có già. 

Một hình ảnh khác, chúng tôi muốn nói Ngài HT Hộ Giác khi còn trẻ Ngài là người có hảo tướng, cũng có thể nói Ngài có một dáng dấp rất đường bệ nhưng khi Ngài lớn tuổi Ngài bệnh có nhiều khi Ngài nói với chúng tôi: "Hồi xưa mình nói cái khổ của sanh lão bệnh tử, cái khổ sanh mình hình dung được, cái khổ bệnh mình hình dung được, cái khổ của chết mình chưa hình dung ra sao, nhưng cái khổ của già thì mình không hình dung được, khi mình già rồi nhiều khi tay chân của mình muốn đi bên này thì nó lại đi bên kia, đôi khi bắp thịt mình bị chuột rút, bị nhức mỏi sáng ngủ dậy nó bị đau bị nhức không có đoán trước được". Rồi ví dụ như chuyện đi đó đi đây đôi khi nó bất tiện ở trong chuyện vệ sinh cá nhân chẳng hạn. Có những lần chúng tôi đi với Ngài máy bay sắp cất cánh mà Ngài phải đi vào toilet, thật ra mình cũng nóng ruột sợ họ đóng cửa lại nhưng người lớn tuổi thì phải như vậy đi vệ sinh khó khăn, Ngài là một người rất lịch sự, Ngài là người ít có làm phiền ai chuyện này nhưng sức khỏe cũng không cho phép mình làm mọi thứ mà tốt. Nhiều lúc Chư Tăng thỉnh mời Ngài đi đâu  Ngài tâm sự Ngài nói rằng "tôi đi nhưng buổi tối về rất mệt". Cũng may Ngài có học Phật Pháp Ngài nhìn tuổi già nó đến là một bản chất tự nhiên nhưng với nhiều người chúng ta lúc đó chúng ta mới thấm thía được là chúng ta không thể  đinh ninh hoài được, không ỉ lại hoài được. 

Nên chi sống giữa cuộc đời này  tâm lý để chúng ta tinh tấn, tâm lý để chúng ta làm thiện, tâm lý để chúng ta phấn đấu phải dựa lên trên sự nhận thức vô thường đến bất cứ lúc nào và không có gì chắc chắn.

 Hồi xưa khi máy bay cất cánh hạ cánh người ta cấm sài tất cả điện thoại, máy vi tính nhưng bây giờ  người ta chỉ nói mình tắt computer và tắt mạng liên kết điện thoại nhưng  ipad mình vẫn sài được cho dù  cất cánh hạ cánh miễn không nối kết với đường giây điện thoại. Thật sự đối với cá nhân chúng tôi đó là một điều rất hoan hỉ vì  lúc nào cũng sài ipad được, trong lúc ngồi chờ ở cổng máy bay ra phi đạo để cất cánh  sài ipad được và mình có thể mua những tờ báo Times, Newsweek, National Geographic để trong ipad để đọc, hình ảnh rất là đẹp rất là tiện và không tốn nhiều tiền.  Chúng tôi có thói quen thích đọc báo, các tờ nhật báo, tạp chí và bây giờ tạp chí có thể đọc trong ipad được trong lúc máy bay đang chờ ở cổng hay đang cất cánh mình đọc. Nhưng một lần xem trên đài TV  nói có 2 thời điểm  máy bay dễ bị tai nạn, đó là thời điểm cất cánh và hạ cánh và những người phi công họ nói khi đang bay ở trên độ cao như 30,000 feet chẳng hạn cho dù  có turbulent tức là tầng không khí bị loãng tạo nên những cú dằn cú sóc làm những người ở trên máy bay sợ nhưng thật ra nó không đáng sợ bằng lúc máy bay cất cánh và hạ cánh.  Trên phương diện máy móc thì 7/10 các tai nạn máy bay xảy ra trong lúc cất cánh và hạ cánh. Chúng tôi  nghĩ đến chuyện nếu mình đọc báo lúc máy bay cất cánh  mà chuyện tai nạn xảy ra lúc đó thì tâm mình ra sao, ngày xưa khi máy bay sắp cất cánh hạ cánh họ nói mình tắt hết tất cả máy móc chúng tôi  tắt hết, chúng tôi thường ngồi yên lặng để niệm hơi thở hay niệm tâm từ lúc đó chúng tôi cảm thấy thoải mái nhưng  bây giờ lúc cất cánh  lúc đó lỡ tai nạn xảy ra mình đang đọc bài viết đó đang suy nghĩ chuyện đó rồi vô thường xảy ra thì tâm mình thế nào. Sau này chúng tôi đổi lại không đọc báo nữa, mình cứ làm như cũ là cất cái ipad, lúc đó mình tận dụng thì giờ để chuẩn bị nội tâm của mình được an tịnh. 

Nói tóm lại, ở trong cuộc sống của chúng ta có cái nhìn chủ quan. Chủ quan ở đây chúng tôi nói là sự say xưa trong kiêu mạn, sự ỷ lại sự đinh ninh  khiến người ta ngây thơ tin rằng mình biết được tất cả mình an bày được tất cả và mình có thể đoan chắc nó xảy ra như vậy, nhưng với Phật Pháp thì nó chỉ là sự đinh ninh không có cơ sở, bất cứ cái gì có thể xảy ra, bệnh hoạn, tai họa, thị phi nhiễu nhương, chúng ta không có thể kiểm soát cả thế giới này. 

Sự an lạc thật sự nằm ở chỗ chúng ta chấp nhận sự vô thường, chấp nhận sự bất định, chấp nhận cuộc sống không nằm theo ý muốn của chúng ta, nếu chúng ta chấp nhận được điều đó, chúng ta nhai, chúng ta nuốt được điều đó, chúng ta tiêu hóa được điều đó thì chúng ta rất an lạc. Nhưng điều này là điều rất khó, chúng ta không chấp nhận và đôi khi chúng ta có mặt cảm về điều đó. Một khi chúng ta vượt qua được mặc cảm rồi thì chúng ta thấy những pháp như Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi chúng ta thấy được những pháp như niệm về Sự Chết quả thật rất tốt cho chúng ta. Ở trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta làm gì chúng ta còn nhớ một điểm  cái chết chắc chắn nó sẽ đến, cuộc sống nó là vô thường. Mình nhớ không có gì làm cho chúng ta được thoả mãn, chúng ta nhớ mình không làm chủ được tất cả thì những điều đó mới nghe không có thoải mái nhưng về lâu về dài nó sẽ cho chúng ta một sự thanh thản thật sự một sự an lạc thật sự. 

Và chúng tôi cũng mong với bài kinh này chúng ta luôn luôn tự nhắc tự soi sáng việc mình tạo ác nghiệp, việc mình  lui sụt trong sự tu tập đa số  xuất phát từ sự say xưa trong kiêu mạn, say xưa trong sự sống trẻ, sống khỏe, sống vui, sống lâu và những kiêu mạn những chủ quan đó  không có cơ sở, nó chỉ là ảo giác của chúng ta.

Đó là vài điều chúng tôi xin được chia sẻ trong pháp thoại hôm nay  

Monday, November 9, 2015

Vô Thường, Khổ, Vô ngã sự thật luôn là vậy

Vô Thường, Khổ, Vô ngã sự thật luôn là vậy

TT Giác Ðẳng trong room Phật Pháp Buddhadhamma ngày 17-03-2010, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng:Trong một bài pháp thoại ngắn chúng ta có thể cùng nhau nhìn vào một vấn đề mà chúng tôi thấy rằng nếu chúng ta phân tích cho kỹ thì có liên hệ đến nhiều khía cạnh hết sức trọng yếu đến đạo của người Phật tử và nói chung là tất cả những người theo những tín ngưỡng đạo giáo.

Trước nhất là chúng ta vẫn thường thấy ở trong các hệ thống tôn giáo nói đến vị Thượng Đế. Người ta thường nghĩ rằng Thượng Đế là vị sáng tạo chủ, là người tạo ra thế giới này. Và những vị giáo chủ tôn giáo ra đời mà tạo ra một nền đạo lớn như là Ki Tô giáo hay là Hồi giáo thì người ta tin rằng những vị đó là những vị mang phúc âm, mang thông điệp của Thượng Đế đến loài người. Và nếu con người phụng thờ vinh danh Thượng Đế thì Thượng Đế sẽ tạo ra những điều tốt lành cho con người và không tạo ra những điều bất hạnh cho thế gian này. Do đó việc tạo tác của Thượng Đế từ lời cầu nguyện của các tín đồ các tôn giáo nó trở thành một nguyên lý căn bản một tính lý nền tảng của tất cả các tôn giáo, đặc biệt là trong hệ thống thần ngã, cho dù là đa thần hay nhất thần, thì người ta vẫn nghĩ rằng bằng lời cầu nguyện con người sẽ làm cảm động Thượng Đế và khi Thượng Đế cảm động thì sẽ tạo ra những điều mà con người mong mỏi và không tạo ra những điều làm con người sợ hãi.

Điều đó nếu chúng ta thấy kỹ và có suy nghiệm về giáo pháp của Đức Phật thì rõ ràng là giáo pháp của Đức Phật được đặt trên một cơ sở hoàn toàn khác. Ở trong Phật ngôn hôm nay, chúng ta thấy rằng không riêng Đức Phật mà tất cả Chư Phật tức là tất cả những bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đã ra đời trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, các Ngài đều là những bậc giác ngộ, giác ngộ sự thật, tuyên thuyết sự thật, tức là khi các Ngài tuyên thuyết những gì mà các Ngài thấy, biết, giác ngộ, thì chúng sanh đi theo con đường mà các Ngài hướng dẫn để khám phá ra sự thật. Vì vậy Chư Phật không phải là vị tạo ra thế gian này và những chân lý đó không phải là sản phẩm dồi nặn bởi Chư Phật. Thay vào đó thì chân lý là điều mà được Chư Phật đại ngộ, và các Ngài giảng giải những gì gọi là hữu ích cho thế gian. Chúng ta phải dựa lên trên nền tảng này để hiểu tại sao Đức Thế Tôn có nhiều lần khẳng định rằng:

"Các con phải tự nỗ lực, các đấng Như Lai chỉ là bậc đạo sư tức là bậc thầy dạy."

Và khi chúng ta hiểu được cái vị thế này thì chúng ta hiểu rằng những gì Đức Phật Ngài làm cho thế gian này thì Đức Thế Tôn đã làm, phần còn lại là những gì chúng ta cần phải làm, thì chúng ta nên biết rõ hơn là chỉ ngồi đó mà cầu mong rằng Đức Phật sẽ mang lại pháp nhãn, sẽ mang lại tuệ giác, sẽ mang lại đạo quả cho mình.

Đề tài này thì không phải chỉ đơn giản như vậy. Ở đây thì chúng tôi xin được nói đến ba phần của pháp thoại này:

1) Phần thứ nhất: Chúng ta thử dành một ít thì giờ để chiêm nghiệm về Vô thường, Khổ não, Vô ngã là những chân lý mà Đức Phật Ngài đã khẳng định rằng dầu Chư Phật có ra đời hay không thì những sự thật đó vẫn là một thực hữu, vẫn là một sự tồn tại không thể khác hơn ở trong thế gian này.

2) Ở trong điểm thứ hai: Chúng ta thử thẩm định lại xem trong kho tàng kinh điển của đạo Phật thì phần nào là phần mà Đức Phật Ngài tuyên thuyết về sự thật, phần nào là phần do Đức Phật Ngài chế định. Chế định ở đây tức là Đức Phật Ngài là vị đã đưa ra những gì có tánh cách là thi thiết, có tánh cách là giai đoạn, tùy theo mỗi vị Phật, tùy theo mỗi văn hóa, tùy theo mỗi quốc độ, tùy theo căn cơ chúng sanh.

3) Sau cùng thì chúng ta thử bàn về một điểm là ở trong kinh điển Phật Giáo Bắc Truyền hãy dùng chữ phương tiện "paya". Phương tiện nghĩa là cái gì giả mà tạm gọi là bày ra, và những gì phương tiện chỉ mục đích dẫn đến cứu cánh. Thật sự ở một phương diện nào đó Phật Giáo Đại Thừa cũng có cách này cách khác hao hao giống như câu nói mà chúng ta hay nói là "cứu cánh biện minh cho phương tiện." Thì chúng ta thử thẩm định giữa những pháp môn tu tập cái nào khế hợp với sự thật và cái nào mang tánh cách phương tiện mà hiển bày.

Bây giờ chúng ta đi vào phần đầu tiên. Ở đây chúng ta khoan nói đến cả một hệ thống kinh điển rộng lớn tức là Tam Tạng kinh điển là Kinh, Luật, Vi Diệu Pháp, chúng ta không nói đến những pháp trợ đạo như Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Tứ Niệm Xứ v.v... chúng ta cũng không nói đến một hệ thống kinh điển như là một kho tàng rộng lớn mà chúng ta đặc biệt tập chú và ba pháp là Vô thường, Khổ, Vô ngã, và vì đó là điểm chính mà Đức Phật Ngài đề cập trong bài kinh này, từ chỗ đó thì chúng ta sẽ bước sang phần hai và phần ba.

Vô thường là gì?

Vô thường nghĩa là cái gì không đứng lại một chỗ. Chúng tôi lấy một ví dụ là chúng ta xem một cuốn phim hay, hoặc thỉnh thoảng đọc những quyển chuyện hay. Ví dụ như đã có một thời trẻ chúng tôi rất thích những tác phẩm của Kim Dung, tác phẩm đó là những tác phẩm dài đã tạo nên những nhân vật có cá tính độc đáo, những nhân vật đó chúng ta có thể tìm thấy được cả một bức tranh sống động về con người, và chúng ta có thể gọi là những đại tác phẩm. Chúng tôi không nói rằng ở trên thế giới này không có những tác phẩm tương tự, thật ra Đông cũng như Tây có những tác phẩm vĩ đại ví dụ như Chiến Tranh và Hoà Bình của Lev Nikolayevich Tolstoy chẳng hạn. Nhưng riêng về tác phẩm của Kim Dung thì thật sự đã làm say mê bao nhiêu người là tại vì chúng ta thấy được có rất nhiều nhân vật, rất nhiều tình tiết, về sau này những tác phẩm này được chuyển thành phim ảnh, những cuốn phim dài mà chúng ta gọi là phim bộ, có những bộ 4, 5 chục tập có khi 5, 6 chục tập.

Khi coi những cuốn phim này thì chúng ta thấy rằng tình tiết luôn luôn diễn tiến, nghĩa là nó đi tới, giả sử như chúng ta thích câu chuyện Thần Điêu Hiệp Lữ. Thì chúng ta có thể bắt đầu bằng câu chuyện Dương Quá hồi còn nhỏ đã sống như thế nào, rồi gặp Quách Tỉnh Hoàng Dung ra sao, rồi được gởi lên phái Toàn Chân Giáo học đạo như thế nào, rồi qua bên cổ mộ gặp Tiểu Long Nữ ra sao. Rồi nó không dừng lại tại đó. Có những cảnh rất là thơ mộng nhưng mà cái thơ mộng đó nó phải đi tới. Tại vì nó là chuyện, nó là phim. Nó đi tới rồi cho dù đoạn đó hay hay đoạn đó dở thì nó cũng phải đi tới. Rồi chia tay với Tiểu Long Nữ một lúc, rồi cũng lưu lạc giang hồ, rồi cũng gặp bao nhiêu là tang thương bao nhiêu là nghịch cảnh, bao nhiêu là dâu bể đổi thay, rồi cuối cùng cũng trở về gặp Tiểu Long Nữ sau 16 năm trường xa cách.

Thì chúng ta thấy câu chuyện đó nó có tánh cách đi tới. Nhưng đặc điểm của câu chuyện đó là dầu nó hay nó hấp dẫn thế nào đi nữa, nó không đứng lại một chỗ, và nó không dừng lại một chỗ, mà nó cứ đi tới, mà hễ nó đi tới thì nó có thể đi tới hoài được. Đâu có cái gì mà đi tới hoài, rồi cuối cùng nó cũng phải kết thúc. Thì chúng ta thấy rằng sau 16 năm hội ngộ gặp lại nhau, rồi Dương Quá rồi Tiểu Long Nữ về lại thành Tương Dương tạo ra chiến công hiển hách, rồi chia tay với Quách Tường v.v...và v.v... Thì bây giờ nó lại đến một hồi phải kết thúc. Nhiều khi câu chuyện hay quá và chúng ta cảm thấy tiếc nuối rằng tại sao nó lại kết thúc, phải chi nó còn thêm nữa. Về sau này chúng tôi có nhận thấy một điều có lẽ là vì nhiều người bắt mạch được tâm trạng đó nên chi người ta đã viết ra những bộ cũng mượn danh Kim Dung thí dụ như Hậu Thần Điêu Hiệp Lữ, hay Hậu Cô Gái Đồ Long chẳng hạn, tức là viết thêm và những tác phẩm đó thường không có hay, đúng ra thì nó mất đi những lạc thú ban đầu của một người từ thưở hàn vi hay là từ thời long đong lận đận cho đến khi thành danh thành tài, cho đến khi tạo ra được những điều hiển hách cho cuộc đời. Đúng ra trong nền văn hóa Trung Hoa họ có thành ngữ gọi là "công thành thân thối" tức là trong thời kỳ khởi dựng sự nghiệp lập giang sơn thì có bao nhiêu điều hiển hách, nhưng đến khi mọi thứ đã xong suôi rồi, tạo nên đại nghiệp rồi, thì một người làm tướng nên biết rút lui, vì ở lại thì có nhiều phiền phức. Thì những cuộc kết thúc đó thường tạo cho chúng ta nhiều tiếc nuối. Nhưng mà nó không thể không kết thúc được.

Nhưng vấn đề tại đây của chúng ta nhìn vào vấn đề đó là tất cả những cái hay cái đẹp cái hấp dẫn của thế gian này luôn luôn đi theo đà gọi là diễn tiến hay là biến chuyển. Đúng như chữ mà người Trung Hoa có chữ là "dịch", "dịch" có nghĩa là thay đổi, có nghĩa là biến hóa, nó không nằm yên được, nó bằng cách này hay bằng cách khác, âm dương tướng tượng sanh ra bát quái, bát quái sanh ra bao nhiêu quẻ, rồi chúng ta mới thấy rằng cuộc sống nó là sự kết hợp nó không nằm yên và cái không nằm yên một chỗ đạo Phật gọi là "Vô Thường."

Cái vấn đề của "Vô Thường" là nằm ở chỗ nào? Vấn đề của Vô Thường là tâm tư của chúng ta thì muốn mọi thứ những gì mà tốt nhất đẹp nhất thì nó nằm yên một chỗ. Chúng tôi lấy ví dụ là không có cái gì nói rõ nên điều này như kỹ thuật chụp hình ngày nay. Ngày xưa trong những chuyến đi xa chúng tôi thấy trong 10 người đi thì có 2, 3 người mang máy chụp hình theo mà thôi, lý do là phim lúc đó rất đắc, rửa ra hình cũng rất là đắc tiền và những người nào ưa thích chụp ảnh lắm mới chụp, còn bây giờ thì hầu như 10 người thì hết 9 người là có máy chụp hình tại vì máy chụp hình bây giờ là digital, và khi chụp hình thì chúng ta thường chụp lại những giây phút đẹp nhất, ngay cả khuôn mặt bình thường không đẹp nhưng có nhiều người ăn ảnh thì đứng lại chụp một tấm hình ở trong một cảnh rất là đẹp, trong một giây phút rất đáng nhớ. Những tấm ảnh đó lâu lâu chúng ta muốn coi lại, chúng ta muốn thời gian như đóng khung. Thời gian như đóng khung chúng ta tạm gọi như trong khoa học "time capsule". Time capsule là chúng ta thu góp những dữ kiện nào đó của một thời đại nào đó gom lại gìn giữ, giữ nguyên không cho nó thay đổi để 1000 năm sau những người đời sau họ khai quật lên họ biết rằng là thời đó có như vậy xảy ra. Chúng ta nhiều khi muốn thời gian được đông lạnh nghĩa là nó ở một sự trạng nào đó nguyên vẹn, như là một tấm hình rất đẹp.

Kỳ rồi chúng tôi đi Thái Lan gặp thân mẫu khi ra phi trường, bà cụ ngồi trên xe lăn, mấy anh em huynh đệ chúng tôi như TT Tuệ Siêu, chúng tôi, sư Pháp Nhiên và vài Phật tử đứng chụp một tấm hình. Chúng tôi về rất thích tấm hình đó tại vì bà cụ ngồi trên xe khuôn mặt rất tươi tắn và mấy anh em đứng chung quanh. Khi nhìn tấm hình thì chúng tôi nghĩ đến chuyện sẽ rửa tấm hình đó để trên bàn để mỗi lần nhớ về bà cụ hay nhớ mấy huynh đệ thì nhìn, tấm hình rất đẹp. Nhưng chúng tôi cũng hiểu rằng đó là những giây phút rất ngắn ngủi, ngắn ngủi như chúng ta đưa máy chụp hình lên bấm một cái thì ngay lúc đó tấm ảnh đó giữ lại. Và chúng ta nói cuộc đời nó là như vậy. Nhưng thật sự cuộc đời không phải là như vậy. Tấm ảnh mà chúng ta thấy được chúng ta đem vào lòng nó chỉ là một phút giây ngắn ngủi, cái phút giây đó là gì? phút giây đó là hình ảnh mà chúng ta cố gắng giữ lại về cuộc sống này và chúng ta quên đi những thứ khác.

Khi xem một cuốn phim thì chúng ta có thể cho một phần nào đó đứng lại giây phút mà chúng ta thích nhất, ở cái nét mặt nào thích nhất, ở một bối cảnh nào mình thích nhất. Nhưng cuộc sống của chúng ta không thể nào làm cho nó đứng lại, chúng ta không có một phép nhiệm màu làm đông lạnh thời gian khiến cho thời gian không thay đổi, tại vì cuộc sống là hằng chuyển, cuộc sống là luôn luôn biến dạng, biến thể, biến dịch, cuộc sống là luôn luôn đi tới, và hễ nó đi tới thì đại khái là chúng ta thấy mọi sự là nó có bắt đầu, rồi nó có diễn tiến, và nó kết thúc.

Đức Phật nói cái pháp nó tập khởi như vậy rồi nó diệt tận như vậy. Giây phút rất vui vẻ mà nó đến với cuộc sống chúng ta là nó do lý do này lý do khác, rồi nó tập khởi tức là nó bắt đầu, rồi nó tồn tại trong khoảng khắc nào đó, nhưng rồi nó cũng kết thúc, nó không thể đứng lại được. Đó là định luật của Vô thường. Thì nếu chúng ta nghiệm cho kỹ về cuộc sống vô thường thì chúng ta sẽ hiểu một điều là như vầy, tất cả những sự việc ở chung quanh mình hằng ngày từ gia đình quyến thuộc bạn bè chùa chiền, đến nỗi mà hệ thống chính trị kinh tế, đến cả thế giới này, cả cái hành tinh chúng ta ở, tất cả thế giới này nó luôn luôn hiện hữu ở trong một trạng thái nào đó và nó tiếp tục. Có thể chúng ta thấy là mình sanh ra thì núi Thất Sơn vẫn có đó, dãy Hi Mã Lạp Sơn vẫn có đó, biển Thái Bình Dương vẫn có đó, bây giờ tất cả vẫn như vậy. Không phải. Có thể rằng là sự có mặt của chúng ta trong cuộc sống này quá ngắn ngủi, mà có thể rằng chúng ta không đủ sự tinh tế để cảm nhận rằng những thứ đó có thay đổi. Những thứ đó thay đổi và chúng ta cũng thay đổi. Thế giới bên ngoài cũng thay đổi, thế giới trong lòng chúng ta vẫn thay đổi, chúng ta không nhận ra được điều này, chúng ta luôn luôn đi tìm một cái gì đó gọi là an lạc, đi tìm một cái gì đó đứng lại, đi tìm một cái gì đó không thay đổi, chúng ta gọi là thế giới vĩnh hằng.

Chúng ta mơ ước nhiều về điều đó, chúng ta mơ ước gìn giữ điều đó giống như chúng ta xem một cuốn phim hay quá thì chúng ta luôn luôn mong mỏi được tiếp tục sống với những nhân vật, sống với những tình tiết, sống với cốt chuyện như vậy. Nhưng mà rồi có cuốn phim nào không đến hồi kết thúc, có câu chuyện nào không có tàn cuộc, và đến lúc cuối cùng rồi thì chúng ta cảm thấy tiếc nuối và những người làm ra những điều đó họ cho rằng sự tiếc nuối là sự thành công của những người sáng tác. Nhưng chúng ta tự hỏi trong lòng rằng đã có bao nhiêu thứ đến và đi trong cuộc đời của mình mà nó nằm lại một chỗ không thay đổi. Và khi mọi thứ thay đổi như vậy thường tạo cho chúng ta bao nhiêu là những bâng khuân, bao nhiêu là những ngán ngẩm, bao nhiêu là những buồn chán, bao nhiêu là bực bội, và đời sống của chúng ta mãi mãi đi tìm cái gì ổn khuất nhất.

Thời đại chúng ta đang sống có một chuyện rất chớ trêu là mình luôn luôn đi tìm cái gì tốt nhất trong cuộc đời này, chiếc xe mình lựa chọn cũng là chiếc xe tốt nhất, cái máy computer mình chọn cũng là cái máy computer tốt nhất, bộ đồ mình mua cũng là tốt nhất, cái máy mình sài cũng là tốt nhất. Nhưng mà cái nhất đó nó được bao lâu, có những cái nhất được một năm, có cái được sáu tháng, có cái được ba ngày, quần áo thì theo mùa, máy móc thì cũng có lúc cái này đến thì cái kia đi. Chúng ta luôn luôn đi tìm một sự dừng lại, đi tìm sự đứng lại, đi tìm một bức tranh được chụp ở một giai đoạn nào đó rất đẹp, chúng ta nói là tuyệt hảo nhất và mong rằng những thứ đó sẽ không thay đổi nhưng mà rồi mỗi thứ cũng thay đổi, cái thay đổi đó có nhiều lý do, nhưng chúng ta nói như vậy là người ta nói rằng hoặc là cảnh thay đổi hoặc là người thay đổi. Cụ Nguyễn Du đã từng viết một câu thơ từ chữ Hán được dịch ra là "Trước sau nào thấy bóng người, hoa đào năm cũ còn người đó đâu." Chúng ta nói "Đào hoa y cựu tiếu đông phong" mình đi về một nơi cảnh cũ tìm lại hình bóng của ngày xưa rồi ở đó hoa đào vẫn nở cảnh cũ vẫn còn đó mà người đã đi đâu. Thì cái đó chúng ta nói cảnh ở bên ngoài nhưng chúng ta cũng cần nói ở trong lòng của chúng ta thay đổi rất là nhiều.

Chúng tôi có nhiều lần trình bày với qúi Phật tử rằng: thật ra tuổi trẻ của chúng tôi có một điều rất êm đềm đó là quê ngoại, quê ngoại của chúng tôi có một con kinh đào và ở trong sân nhà ngoại thì đằng sau có một cái hố, ở trước mặt nhà thì có con kinh đào, và ở giữa có một khu vườn có một mảnh ruộng, và trong khu vườn đó được chia làm nhiều mảnh mà người miền nam gọi là cái líp, và giữa những cái líp này có những con mương những cái ao được đào. Những buổi trưa hè nắng ăn cơm xong thì chúng tôi thích đi xuồng dọc theo những cái líp tìm những trái ổi, những trái cam trái, trái chuối chín cây rất là thú vị. Sau đó chúng tôi rời quê ngoại để vào chùa tu rồi lên Sàigòn, nhiều năm sau trở về lại thì chúng tôi nghĩ rằng quê ngoại không thay đổi nhiều nhưng mà ở trong lòng mình thì thật sự thay đổi nhiều, có thể rằng bây giờ thấy con kinh nhỏ hơn, bây giờ thấy thế giới ngày xưa mình thấy rất êm đềm nó không êm đềm như vậy, có những buổi mình đi xuồng ở trên líp buổi trưa hè và xin cho cuộc sống dừng lại, nhưng bây giờ mình thấy cuộc sống đó buồn chán quá, nó đơn giản quá.

Thật ra vấn đề nó nằm ở chỗ này, vấn đề nằm ở chỗ là tâm và cảnh đều thay đổi hết, thế giới bên ngoài cũng thay đổi và thế giới trong lòng của chúng ta cũng thay đổi, và sự thay đổi đó nhiều khi chúng ta không để ý ở một điều là chúng ta có cưỡng cầu, có cố gắng nắm níu, và cái cố gắng nắm níu lại chúng ta có cố gắng sửa đổi thời gian lại giống như là khi mình coi phim, tại sao chúng ta thích coi phim, là tại vì chúng ta có thể quay ngược phim trở lại, có thể cho phim chạy qua đoạn khác, có thể làm cho nó đứng lại. Và chúng ta nghĩ rằng chúng ta cố ý nắm níu lại một hình ảnh nào đó như vậy nhưng tất cả đều thay đổi. Và vì vậy khi chúng ta nghiệm về lý Vô thường thì chúng ta phải hiểu rằng mỗi một tuổi mỗi một giai đoạn thì chúng ta nhìn cuộc đời khác đi và thế giới này nó cũng từ đó mà khác đi.

Ba mươi năm trước chúng tôi đặt chân đến Mỹ, nước Mỹ ngày đó và bây giờ khác nhau, và không phải đất nước Mỹ ngày đó và bây giờ khác nhau mà tâm tư của chúng tôi ngày đó là một người 17, 18 tuổi, đặt chân đến xứ lạ quê người nhìn thấy nước Mỹ như thế nào và hôm nay chúng tôi nhìn lại nó cũng khác nhau, cái sự thay đổi đó nó liên tục, nó liên tục bởi vậy Đức Phật Ngài dạy rằng:

"Một ở trong cái khôn ngoan nhất của chúng sanh trong cuộc đời này là thấy được tính tập khởi và tính đoạn diệt của các Pháp, tức là thấy được tính sanh và tính diệt của các Pháp."

Và thậm chí Đức Phật khẳng định một điều rằng "Ai sống trăm năm mà không thấy được pháp sanh diệt thì không bằng sống một ngày mà thấy được pháp sanh diệt."

Tại vì sao? Tại vì chúng ta hiểu được những thứ đó thay đổi rất nhiều và nếu chúng ta hiểu được mọi thứ thay đổi thì thái độ sống của chúng ta cái vui cái buồn cái sự chấp nhất của chúng ta sẽ khác đi hơn là chúng ta khư khư nghĩ "à! nó muôn năm phải như vậy và lúc nào nó cũng phải như vậy."

Khổ não.

Một khía cạnh khác mà phần hai Đức Phật giảng trong Phật Ngôn này đó là Khổ não. Chữ khổ ở đây thật ra rất là khó dịch. Chữ khổ có ba hình thức:

Thứ nhất sự khổ là điều gì trái ý nghịch lòng. Chúng tôi lấy ví dụ như mình không thích ăn cay mà bây giờ ăn món cay quá, mình thích người ta khen mình mà bây giờ người ta chê mình, hoặc giả mình thích đi đến một nơi sạch sẽ lịch sự mà bây giờ người ta đưa đến một nơi dơ quá, và người ta bất nhã quá, thì gọi là trái ý nghịch lòng thì cái đó là cái khổ. Cái khổ nó đơn giản là trái ý nghịch lòng ai cũng hiểu hết.

Có một thứ khổ khác mà chúng ta có thể nói là nó gần với ý nghĩa của kinh điển hơn là sự khổ không toại nguyện hay là không thoả mãn. Nghĩa là ở trong cuộc sống này chúng ta muốn đi tìm một cái gì đó từ bộ quần áo mình mặc, từ cái máy mình sài, từ một người bạn đường mà mình muốn chia sẻ cuộc sống, và một kiểu sống, một cách sống nào đó gọi là lý tưởng 100% nhưng rồi chúng ta đi mãi mãi mà không tìm thấy. Cái gì cũng có tánh tương đối của nó. Ví dụ như một người sống ở VN khổ quá họ nói rằng qua Mỹ thì mới sung sướng, nhưng qua Mỹ rồi họ mới thấy là qua Mỹ cũng có cái được cái không được. Một người độc thân thì nghĩ là mình có gia đình cuộc sống mình sẽ tốt hơn, lập gia đình rồi mình hiểu là có cái được có cái không được. Rồi cuộc sống của chúng ta hồi không có chiếc xe thì mình thấy là có chiếc xe sẽ giải quyết được mọi vấn đề nhưng khi có chiếc xe rồi thì cũng có cái được cũng có cái không được. Cái bất toàn của đời sống nó khiến chúng ta không hoàn toàn thoả mãn, không hoàn toàn hài lòng về cuộc đời này, chính vì vậy mà mỗi chúng ta luôn luôn sống ở sự trăn trở. Hồi còn trẻ thì có cái trăn trở của tuổi trẻ, lúc mình già có cái trăn trở của tuổi già, lúc mình nghèo thì có cái lao đao lận đận của người nghèo, lúc mình dư giả tiền bạc thì mình cũng có cái phải lo phải buồn phải lo lắng liệu toan của người có tiền. Nói chung cuộc sống là bất toàn và trong cuộc sống bất toàn đó thì nó luôn luôn dẫn chúng ta đến một tình trạng đó là không hài lòng, không mãn nguyện.

Nhưng cái không hài lòng mãn nguyện lớn nhất có lẽ nó đến từ chỗ này, từ chỗ vô thường, cái gì có sanh thì phải có diệt, do có sanh lên phải có diệt, do vậy trong tận cùng tâm thức của chúng ta luôn luôn có sự bất an, luôn luôn có sự hoài nghi. Bây giờ chúng ta nói một chuyện như vầy là có người nào đó lớn lên trong cuộc đời này bị phản bội trong tình yêu và từ đó về sau thì họ thù hận họ nghi ngờ tất cả những mối tình, thì chuyện đó dễ hiểu với chúng ta lắm. Nhưng bây giờ chúng ta tự hỏi rằng nếu trong cuộc đời của chúng ta không phải chỉ có một chuyện làm chúng ta thất vọng mà nó có hàng trăm hàng ngàn chuyện làm chúng ta thất vọng thì chúng ta có nghi ngờ cuộc sống không, chắc chắn là có, nhưng mà quả thật trong đời sống của chúng ta có hàng trăm ngàn thứ để chúng ta thất vọng, tại vì những điều mà chúng ta mơ ước, giống như Tô Đông Pha nói rằng: "Vị đáo sanh bình hàn bất tiếu, đáo đắc hoàn lai vô biệt sự, lô sơn yên toạ triết giang triều." Khi chưa đi đến thì mình thấy nó đẹp thấy mơ ướt đủ điều hết, nhưng đến rồi thì thấy nó cũng vậy thôi, và cái cũng vậy đó khi mình trở về thì mình thấy nó vẫn là nó nhưng trong tâm tư mình cái thái độ đã khác đi rồi.

Do vậy chúng ta phải nói rằng một trong ý nghĩa của sự khổ đó là bất toại nguyện hay nói một cách khác chữ dukkha. Chữ duk có nghĩa là rỗng không nghĩa là chúng ta không tìm thấy cái lõi của nó chúng ta không tìm thấy cái tuyệt đối của nó. Trong kinh ví dụ như là một củ hành hay một cây chuốt, chúng ta cứ lột ra từng lớp này rồi lớp nữa rồi lớp nữa rồi cuối cùng thì tất cả chỉ là những lớp mà nó bọc lại với nhau, chúng ta không tìm ra cái lõi.

Thì vấn đề của chữ khổ Đức Phật Ngài dạy đó là bất toại nguyện nghĩa là về đời sống này không bao giờ có sự thoả mãn hoàn toàn và điều đó là một điều chắc chắn khi Đức Phật dạy rằng:

"Này các tỳ kheo cái gì vô thường thì cái đó là khổ."

Tức là cái gì mà nó thay đổi diễn biến. Tại vì chính cái yếu tố vô thường đó nó khiến cho chúng ta không tìm thấy một sự an lành. Chính yếu tố vô thường đó nó không cho chúng ta một chỗ nương tựa vĩnh hằng. Chính sự vô thường đó nó là một sự đe dọa bất tường, luôn luôn lúc nào nó cũng nói với chúng ta rằng "à! cái đó nó có sanh rồi nó có diệt, nó có đến rồi nó có đi, cho dù đó là người thân của mình, cho dù đó là tài sản của mình, cho dù đó là gì gì đi nữa thì nó luôn luôn có đến và có đi. Và điều này đối với Đức Phật thật sự là quan trọng, thật sự là cần phải lưu ý, phải hiểu, và phải lãnh hội.

Vô Ngã

Bây giờ chúng ta nói sang đoạn thứ ba của bài kinh này Đức Phật nói về sự vô ngã.

Chữ vô ngã ở tại đây là một chữ mà chúng ta dễ dị ứng. Tại sao chúng ta dị ứng? Tại vì hầu hết tất cả những cái gì mà chúng ta cảm thấy là có ý nghĩa trong cuộc đời này nó đều liên quan đến ngã và ngã sở hết, "đây là tôi", "đây là của tôi." Một căn nhà có đẹp đến đâu, một cuộc sống có vui đến đâu, nhưng mà căn nhà đó và cuộc sống đó không phải là của mình thì nó không có ý nghĩa gì hết. Giống như qúi vị coi phim đọc chuyện mà thấy rằng có ai đó sống trong cảnh thần tiên như Lưu Nguyễn lạc thiên thai, hay chúng ta nói đời sống của một vị công chúa đẹp như câu chuyện thần thoại cổ tích, hoặc của ai đó, của các tài tử, nhà tỉ phú thì chúng ta không mảy may màng đến tại vì cái đó không phải của mình. Cái gì mà gọi là của mình thì mình mới cảm thấy có ý nghĩa. Cái gì mà gọi là của mình là mình thì mình mới cảm thấy rằng thật sự mình tha thiết.

Bây giờ vấn đề của chúng ta nằm ở chỗ nào? Cái gọi là của mình thì đối với Đức Phật rất là đơn giản để định nghĩa. Cái gì mà mình có thể muốn nó như thế này muốn nó như thế kia thì cái đó mới thật sự là của mình, nếu mình muốn nó như vậy mà nó làm như vậy thì mới thật sự là của mình. Ví dụ như bây giờ qúi vị có một người thân mà qúi vị muốn người thân đó chìu qúi vị, người thân đó lo cho qúi vị, chú ý đến qúi vị, mà người đó đáp ứng thì mới gọi là người thân. Còn nếu người đó họ không quan tâm gì đến qúi vị gì hết, qúi vị nói đông họ nói tây, qúi vị muốn cái này họ làm cái khác, thì như vậy không gọi là người thân được. Thành ra khi cái gì gọi là của mình thì nó phải đi với cái định lý là nó phải như thế này phải như thế kia, đừng như thế nọ thì nó mới là của mình

Nhưng theo trong kinh Phật thì một sự thật là có rất nhiều thứ mà chúng ta không để ý như ngay đến bản thân của mình, thân của chúng ta tâm của chúng ta, chúng ta muốn vậy mà nó không phải như vậy. Chúng ta khoan nói đến chuyện đất nước, khoan nói chuyện đến thế giới, khoan nói chuyện đến thời cuộc. Chúng ta nói về thân của chúng ta, tóc bạc trên đầu chúng ta biểu nó đừng bạc, không được, chúng ta già đi theo năm tháng, chúng ta không thể bảo nó đừng già, chúng ta nay bịnh mai đau biểu nó khỏe hoài cũng không được. Như vậy nếu qúi vị nghiệm cho kỹ thì cái thân nó vốn có tự tánh của nó và nó không làm theo ý mình, rồi mình cãi "à! thân vì nó là vật chất mình không làm chủ nhưng mình có thể làm chủ cái tâm." Nhưng một cách đơn giản thôi, Đức Phật Ngài dạy rằng một vị tỳ kheo một buổi sáng mà muốn an trú vào thứ tâm nào thì an trú vào được thứ tâm đó và làm sáng chói khu rừng. Nhưng nếu người trong chúng ta mà chúng ta có thể điều khiển tâm ý như mình muốn, ví dụ như lúc mình muốn tâm mình yên, thanh thản đi ngủ thì nó lại chăn trở, nó lại thức muốn làm cái này làm cái kia, và những lúc chúng ta muốn làm nó hưng phấn muốn nó phấn khởi muốn nó phấn chấn thì nó lại thụ động nó lại buồn ngủ. Cái vui cái buồn của chúng ta cũng vậy. Một vị thi sĩ cũng phải than là "hôm nay trời lại lên cao tôi buồn chẳng biết vì sao tôi buồn" Cái buồn của mình mình cũng không biết nữa, mà cái vui của mình mình cũng không làm chủ nó. Cái vui mình muốn giữ nó hoài cũng không được, mà cái buồn mình muốn xua đuổi nó đi nó cũng không đi.

Do vậy thế giới của chúng ta quả ra nếu chúng ta sống mà nhớ điều nên nhớ đáng nhớ thì thật ra chúng ta hạnh phúc lắm, tại vì trong cuộc đời chúng ta có nhiều kỷ niệm đẹp. Nhưng điều oái ăm là những người đã rất tốt với chúng ta, những kỷ niệm rất đẹp của chúng ta, những cảnh đẹp mà chúng ta đã đi qua thì chúng ta lại không nhớ nhiều, mà chúng ta nhớ đến ân oán, chúng ta nhớ đến cái xấu cái quấy, chúng ta nhớ đến những điều trái ý nghịch lòng, và có nhiều cái nhớ của quá khứ làm cho chúng ta bực bội làm cho chúng ta gây gỗ làm cho chúng ta khó chịu, và chúng ta không thể nào làm chủ được cái nhớ của chúng ta hoàn toàn.

Bây giờ chúng ta nói đến cái thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác, rồi ý thức. Chúng ta nói nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, hay là thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ. Thì qúi vị thấy rằng cũng không phải lúc nào mình cũng có thể chủ động được những cái mình thấy được, những điều gì mà mình nên thấy, muốn thấy. Có những điều nghe thấy mà đau đớn lòng như cụ Nguyễn Du nói thì chúng ta vẫn thấy chúng ta không thể xua đuổi đi được. Thế giới ở bên ngoài hầu như là nó đi vào trong đời sống của chúng ta, nó như là một cái chợ, một cái chợ là mình không biết ai là người sẽ vào, người ta sẽ bán cái gì và phiên chợ buổi đó ra sao, chúng ta chỉ biết là chúng ta đang có cái chợ thôi. Đời sống tâm tư của chúng ta cũng vậy, bao nhiêu là những cảnh buồn vui thương ghét trái ý nghịch lòng nó len lỏi đi vào đời sống của chúng ta, chúng ta không thể xua đuổi nó đi được, chúng ta không thể quẳnh mặt làm ngơ với nó được, chúng ta phải chấp nhận nó là một thực tại.

Và do vậy nếu chúng ta nghiệm cho kỹ và nếu chúng ta nói một cách thành thật thì dù là sắc, dù là thọ, dù là tưởng, dù là hành, dù là thức, đi nữa thì tất cả những thứ đó nó không thể làm theo một điều mà theo Đức Phật dạy rằng: nếu những thứ đó thật sự là của ta thì ta có thể nói rằng: nó như thế này và đừng như thế kia." Nhưng không phải là bởi vì nó là "Vô Ngã" nên mình không thể nói nó theo ý của mình được. Và hơn thế nữa thì có một thứ mà hầu như trong người của chúng ta ai cũng mơ ước hết: đó là mọi thứ đều xuôi theo ý của mình. Do vậy chúng ta mới có từ "trái ý nghịch lòng." Cái gì theo ý mình ví dụ như ngày hôm đó chúng ta làm việc gì đó mà mọi người đều nhanh nhẩu mọi người đều thiện cảm đều làm theo đúng thời khóa biểu mọi thứ như mình muốn thì mình rất là hoan hỉ. Ví dụ như hôm nay chúng ta vào trong rơom rồi có mặt đông đủ các vị giảng sư, rồi các Phật tử trong ban điều hành làm việc nhanh nhẩu chương trình tốt đẹp, paltalk không có vấn đề thì nó quá lý tưởng cho một buổi sinh hoạt. Nhưng nhiều khi nó không theo ý mình được tại vì chúng ta không quyết định được tất cả.

Một cái hoa nhiều khi đặt đúng chỗ thì nó đẹp, còn đặt không đúng chỗ thì không đẹp. Chúng tôi nhớ kỳ rồi sang bên Bangkok, và buổi chiều cuối cùng HT Huyền Việt muốn đi trên sông Chao Phraya, chúng tôi đã thuê thuyền để đi từ Watt That Kon đi đến Watt Paknam, rồi không hiểu vì sao người ta lại đưa vào một đoạn kinh đập sâu ở trong làng người ta ở. Thì thật sự lúc đó chúng tôi đã tìm thấy được hình ảnh cuộc sống của sông ngòi tức là cuộc sống rất gần gủi với đời sống nông thôn ngày xưa ở miền Nam VN, có nghĩa là ở giữa là những con kinh rạch hai bên là nhà là vườn, và trên đường đi thấy nhiều hoa như là hoa quỳnh anh, hoa hoàng yến, hoa bằng lăng, màu vàng màu tím đủ thứ hoa nở rộ. Chúng tôi tìm thấy cái gì rất thân quen rất đẹp. Chúng tôi đã nói với HT Huyền Việt là cuộc sống của chúng ta mà thỉnh thoảng được đi trở về miền quê tìm thấy hình ảnh của thiên nhiên rất là gần gủi với thời thơ ấu thì thật là một điều tuyệt vời. Thì HT Huyền Việt cũng nói: "mình muốn như vậy nhưng lớn lên cuộc đời trôi dạt thì có trăm muôn ngàn thứ mà nó không theo ý của mình được."

Thì lúc đó chúng tôi chợt nhớ một điều rằng những giây phút như vậy thật sự rất là hạn hữu. Là vì ý muốn của mình không quyết định tất cả, không có gì quyết định tất cả trong cuộc đời này mà nó phải là sự kết hợp của nhiều thứ. Chúng tôi lấy ví dụ là những đóa hoa hoàng yến nở đẹp thì ít nhất là chúng ta thấy nó đẹp là nó cũng phải có một cái cảnh nào đó ở trong cái không khí nào đó và ở trong thời điểm nào đó thì chúng ta mới thấy nó đẹp. Còn bình thường chúng ta thấy nó thường lắm mặc dầu có những thành phố như Chiang Mai chúng ta về thấy những đóa hoa hoàng yến nở rực rỡ màu vàng thả xuống dọc hai bên đường nhưng mà chúng tôi tin rằng những người ở đó nhiều khi họ không cảm nhận như vậy. Thành ra cái mà chúng ta nghĩ là đẹp nó đòi hỏi như vầy: giống như người ta nói một bữa ăn mà thức ăn ngon, rồi phải có người ăn ngon, rồi cách ăn nữa, và phải có lúc chúng ta cảm thấy ăn ngon thì nó mới ngon được. Do nhiều yếu tố kết hợp, do đó không có một yếu tố nào riêng lẻ độc quyền, và do không có một yếu tố riêng lẻ độc quyền do vậy mọi vật là "Vô Ngã."

Chúng ta nhớ câu nói của Ngài A Xà Chí (Assaji) là "Vạn pháp do duyên mà sanh và cũng do duyên mà diệt." và Ngài Xá Lợi Phất nghe nói như vậy thì tỏ ngộ. Cái do duyên mà sanh do duyên mà diệt là thí dụ như chúng ta nhìn thấy một cảnh tượng đẹp là do một buổi sáng mặt trời lên không khí còn trong lành còn mát mẻ và chúng ta đang có thời gian rảnh rỗi mới cảm thấy được như vậy. Nhưng nếu trong trường hợp mà buổi sáng ra đi, rồi buổi trưa về trời nóng nực, hoặc giả là chúng ta đang bận rộn không có thời gian thanh thản nữa thì ngày đó giờ đó không đẹp nữa. Nó có nhiều yếu tố để quyết định và khi nhiều yếu tố đó nó đi qua rồi nó khác đi rồi, thì mọi sự việc nó phải khác đi. Các pháp do duyên mà sanh và cũng do duyên mà diệt. Những tập hợp của nhiều nhân duyên nó cho chúng ta rất nhiều nhưng mà rồi nó cũng lấy đi rất nhiều, chúng ta không thể không biết về điều này. Thành ra Đức Phật Ngài dạy rằng đó là yếu tính của vô ngã là do nhiều nhân nhiều duyên chứ không phải do một nhân một duyên, và cái ý muốn của chúng ta nó chỉ là một ở trong nhiều yếu tố mà thôi, và đừng nghĩ nó là tất cả.

Sau khi nói về ba chân lý vô thường, khổ vô ngã thì chúng ta nên nhìn lại và tự đặt câu hỏi rằng tại sao Đức Phật Ngài dạy rằng:

"Này các tỳ kheo, cho dù Chư Phật có ra đời hay không thì những sự thật là vô thường, khổ, vô ngã nó đều hiện hữu và đó là một tự tính mà cho dù Chư Phật có nói hay không nói thì nó vẫn có đó."

Tại vì sao ? Tại vì nó là những điều tự nhiên, phải như vậy, sự thật nó là như vậy. Đó là đề tài của chúng ta ngày hôm nay. Thì vấn đề là chúng ta có khám phá, có nhìn nhận, có chấp nhận nó mà chấp nhận một cách khôn ngoan, chấp nhận với tuệ giác hay không mà thôi. Chúng ta nên hiểu điều này và vì vậy con đường tu tập của người Phật tử không phải là cầu mong rằng Đức Phật Ngài sẽ ban một phép lạ để Ngài tạo cái gì cho chúng ta, hay hoặc giả là chúng ta sẽ được Đức Phật Ngài trao cho một quả vị gì đó. Mà con đường tu tập giác ngộ của người Phật tử là đi vào cánh cửa mà chúng ta gọi là giác ngộ, sau giác ngộ là giải thoát.

Giác ngộ là gì? Giác ngộ là lãnh hội, nhận thức và chấp nhận được sự thật. Chúng ta nói lãnh hội có nghĩa mình biết nó là như vậy, nhận thức là thấy nó như vậy và chấp nhận có nghĩa là; à, sự thật nó ra sao thì mình chấp nhận nó như vậy, nó như vậy là như vậy. Ví dụ như một đứa trẻ, con cháu nuôi trong nhà mình bực mình tại sao nó phá tại sao nó quậy nhưng rồi đến lúc nào đó mình nhận ra; à con nít thì nó phải chơi đùa như vậy, mình chấp nhận nó như vậy thì nó như vậy. Hay thành phố Houston vào mùa hè thấy nóng quá sinh bực bội thì lúc nào đó chúng ta chấp nhận; à, mùa hè nó là như vậy. Thì mình không bực bội nữa. Cái đó chúng ta gọi là chấp nhận, đời sống con người của chúng ta là lãnh hội, nhận thức và chấp nhận không phải là chuyện dễ. Đức Phật Ngài nói là thấy, biết, hiểu, và xác chứng là mình thấy nó như vậy, mình hiểu nó như vậy, mình xác chứng, mình chấp nhận nó như vậy, nó phải là như vậy. Cuộc đời ở đây là một thái độ sống mà thiệt ra là một sự khôn ngoan mà Đức Phật Ngài dạy cho chúng ta không phải là vì chúng ta có khả năng để mà gọt dũa để mà nhào nặn cho sự thật nó khác hơn sự thật mà trước nhất là chúng ta phải nhận là tự tánh sự vật nó là như vậy, nó như vậy thì nhận nó là như vậy, khi mình thấy nó là như vậy thì mình không có phiền lụy một cách vô ích, không tạo sự căng thẳng cho mình một cách vô ích. Qúi vị đã sống trong thành phố kẹt xe nhiều đừng để sự kẹt xe đó làm cho qúi vị bực bội, tại vì sự kẹt xe nó là một sự thật là một điều mà quí vị phải sống với qúi vị phải chấp nhận như vậy thôi. Ví dụ sống trong cộng đồng chúng ta than thở là cộng đồng người Việt thì hay chia rẽ hay đố kỵ, cộng đồng người Việt hay nói xấu nhau, chúng ta sống trong cộng đồng người Việt thì khi nào có ai chia rẽ hay có ai đố kỵ lời nói qua tiếng lại thì chúng ta nói; à, cộng đồng của chúng ta là như vậy, chúng ta chấp nhận như vậy, tại vì sự thật nó là như vậy.

Bây giờ chúng ta bước sang một điểm khác:

Có hai điểm chính mà chúng tôi nêu lên là chúng ta phải hiểu rằng ở trong giáo pháp của Đức Phật là điều nào là thi thiết?

Thì câu hỏi này có thể trả lời một cách đại khái nhưng mà phải học Phật lâu năm thì chúng ta mới thấy được điều này. Ví dụ như ở trong kinh điển Đức Phật những sự thật như là Duyên khởi về Tứ đế thì những sự thật đó nó vốn là những sự thật đời nào cũng vậy, Giáo lý nghiệp báo là đời nào cũng vậy thời nào cũng vậy, Chư Phật thấy như vậy, Chư Phật dạy như vậy, chúng ta gọi những pháp này giống như là trong những môn học nhà trường của chúng ta gọi là khoa học tự nhiên, hay là những điều mà tự nhiên, và những điều như trong Luật tạng , trong Giới bổn Patimokkha, Đức Phật Ngài dạy rằng tỳ kheo có bao nhiêu giới tỳ kheo ni có bao nhiêu giới v.v... thì điều đó mang tính là thi thiết hay mang tánh cách chế định, và sự chế định đó thì tùy theo mỗi một vị Phật. Ví dụ như có vị Phật ra đời thì các Ngài đặt ra luật định, có những vị Phật ra đời không đặt ra luật định mà tùy theo cái căn cơ, tùy theo hoàn cảnh cái bối cảnh sống của chúng sanh thời bấy giờ.

Sau cùng có một câu hỏi mà chúng ta nêu ra ở tại đây đó là những Pháp của Đức Phật nêu ra có tánh cách phương tiện phải không?

Chữ phương tiện ở đây là một từ mà rất là chúng ta phải cẩn trọng, chúng tôi nói một lần nữa là người học Phật phải cẩn trọng với chữ phương tiện. Chữ phương tiện có nghĩa là giả lập, có nghĩa là bày ra chứ nó không thật. Chúng tôi lấy ví dụ như bây giờ có nhiều vị thầy giảng Tịnh Độ Tông là ở thế giới Phương Tây có một cảnh giới cực lạc,i có 7 hàng cây báu, có chim ca lăng tần già v.v.... Nhưng có vị khác nói rằng điều đó Đức Phật Ngài phương tiện chế ra chúng sanh thích một cảnh giới, sanh chỗ này, chỗ kia rồi được như vậy, là Đức Phật Ngài chế ra chứ thật sự thì 7 hàng cây báu tượng trưng cho Thất Giác Chi, rồi chim ca lăng tần già tượng trưng cho cái gì đó. Chúng ta gọi đó là phương tiện mà nói. Thì khi chúng tôi đi sang Ấn Độ chúng tôi thấy có một điều như vậy là tận trong tâm của người Phật tử đi hành hương có hai khuynh hướng: một khuynh hướng xem rằng những sự kiện liên quan đến cuộc đời của Đức Phật là những điều thật. Lấy ví dụ như Ngài sanh ra là một vị Thái Tử, rồi Ngài dứt áo ra đi từ giả thê nhi, trên đường Ngài tu khổ hạnh, chúng ta đọc qua mỗi giai đoạn như vậy chúng ta cảm động tại vì đó là đời sống thật. Nhưng một lý thuyết được phổ thông trong Phật giáo Đại Thừa đó là điều đó chỉ là sự thị hiện mà thôi. Chữ thị hiện có nghĩa là bày cho thấy thôi, thị hiện giống như chúng ta tạm gọi là mình viết kịch bản chẳng hạn, tức là câu chuyện đó là một hư cấu mình viết ra để làm cảm động lòng người. Thì đối với Phật giáo Đại Thừa đa số những chi tiết về cuộc đời của Đức Phật mang tánh cách thị hiện có nghĩa là Đức Phật Ngài muốn cho những chúng sanh có căn cơ thấp căn cơ cao họ thấy họ biết như vậy thôi chứ không phải là chân lý, và những điều đó là điều không để ý thấy. Ví dụ như Đức Phật Ngài già hay Đức Phật Ngài bệnh đó chỉ là điều thị hiện chứ thật sự không phải là như vậy.

Thì chúng tôi thưa với qúi Phật tử ở một điểm này nên cẩn thận, thật ra trong giáo pháp của Đức Phật và ở trong nhiều bài kinh chúng ta thấy trong đó có bài kinh Abhaya Sutta tức là kinh Vô Uý Vương Tử, Đức Phật nhắc một điều rằng những pháp nào mà Đức Phật giảng dạy đó là Pháp có hiệu năng dẫn đến giải thoát, Đức Phật Ngài không dạy những điều phù phiếm vô ích, và những Pháp nào mà có hiệu năng giải thoát thì Pháp đó phải tương ứng với sự thật.

Tương ứng với sự thật là thế nào?

Như là đây là Tứ thần túc, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Mgũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo những pháp đó đều phải tương ứng với sự thật nó không phải là một phương tiện giả lập. Về điểm này là một sự khác biệt sâu sắc, là sự khác biệt lớn giữa Phật Giáo Bắc Truyền và Nam Truyền. Phật Giáo Nam Truyền tin rằng những gì liên quan đến giác ngộ giải thoát thì điều đó phải tương ứng với sự thật, và sự thật này lấy ví dụ như hôm nay chúng ta nói về Vô thường, Khổ, Vô ngã thì bốn pháp này là bốn chân lý là những phương tiện tu tập. Giác ngộ giải thoát thì nó không có gì trái chống mâu thuẫn với những lời dạy về Vô thường, Khổ não, Vô ngã điều này thì thật sự thưa qúi vị chúng tôi tin rằng các vị giảng sư sẽ nói nhiều đến về phần thảo luận.

Nói tóm lại ngày hôm nay chúng ta học một bài kinh trong này Đức Phật Ngài ân cần nói rằng những sự thật là Vô thường, Khổ, Vô ngã dù Chư Phật có ra đời hay không thì nó là một tự tánh vốn không có khác biệt không có thay đổi ở trong quá khứ, hiện tại, vị lai, điều đó là điều chúng ta nên nhớ. Và chúng tôi cũng muốn nhắc qúi Phật tử rằng ở trong lời dạy của Đức Phật thì có những lời dạy mang tính bất di bất dịch nói về hiện tượng của các Pháp nhưng mà nó có những điều do Đức Phật chế định thí dụ như Tạng Luật chẳng hạn.

Bây giờ thì chúng tôi nói gọn phần sau cùng đó là theo trong kinh điển Pali thì tất cả những gì liên quan đến sự tu tập thì điều đó phải là điều tương ứng với sự thật, nó không thể là điều giả lập không thể là điều phương tiện được và đây là sự khác biệt giữa Phật Giáo Nam Truyền và Bắc Truyền./.

Tuesday, October 27, 2015

Biết nghe là một nghệ thuật trong đời sống

(Xin lưu ý: Tất cả những bài chuyển biên chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng người chuyển biên xin đề rõ tên người chuyển biên) 
Biết nghe là một nghệ thuật trong đời sống

TT Giác Ðẳng trong room Phật Pháp Buddhadhamma ngày 27-05-2010, Minh Hạnh chuyển biên

Chánh Văn: Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người với trí tuệ lộn ngược, hạng người với trí tuệ bắp vế, hạng người với trí tuệ rộng lớn.

TT Giác Đẳng giảng: Ngài Walpola Rahula có viết một cuốn sách với với tựa đề là "The Buddha 's Sense of Humor - hài hước hay là dữ dội khi chúng ta đọc kinh điển." Đúng ra thì Đức Phật Ngài không thuyết pháp để chọc cười chúng sanh, nhưng đôi khi những điều Đức Phật dạy trong trường hợp như chúng ta đang thảo luận sau đây là thứ gì mà đôi khi chúng ta nói lên quả thật là nghe cũng rất là vui.

Đó là khi nói trí tuệ được úp xuống, nghe thì chuyện đó không vui nhưng nó cho chúng ta ý nghĩa rất rõ ràng là trí tuệ lộn ngược là cái gì mà úp xuống thì nó không chứa được.

Nhưng cái trí tuệ cho chúng ta cảm thấy thú vị đó là Đức Phật gọi là trí tuệ ở bắp vế. Cái gì để ở trên đùi của chúng ta rồi không để ý mà đứng dạy thì nó rớt xuống hết.

Và hạng thứ ba Đức Phật giảng đó là trí tuệ rộng lớn là nghe pháp có chú ý, có lãnh hội và có thẩm thấu. Tức là chúng ta có tiêu hóa có ghi nhận có đem vào trong lòng. Người xưa có dùng chữ thụ nhân, thụ nhân tức là một người đặt mình ở trong phương tiện là một người hấp thụ, là một người bền giữ, người có tâm cầu học, thì điều đó cho chúng ta một số lợi ích nhất là trên phương diện học Phật Pháp.

Đọc lại bài kinh Đức Phật giảng có rất nhiều trường hợp trước khi Đức Phật thuyết pháp Ngài gọi: "Này chư tỳ kheo, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ Như Lai sẽ giảng".

Trước khi Đức Phật thuyết pháp Ngài nói chư Tỳ Kheo hãy lắng nghe Như Lai sẽ giảng, có lẽ là một trong các phương chặng đầu tiên khiến cho Phật Pháp thấm nhuần tâm tư của chúng ta đó là sự chú ý hôm nay đề tài nói gì, và sự hướng tâm rất quan trọng. Chẳng những vậy mà chúng ta thấy trong bài kinh này Đức Phật Ngài nói rằng chú ý ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối. Điều này rất là đơn giản, như hồi chúng ta học khi làm một bài luận văn hay một bài viết phải có phần mở đầu, rồi phần thân bài rồi đến phần kết luận, nếu không có sự dẫn nhập hay lời giới thiệu ban đầu thì thật sự người ta không có ý niệm về cái gì. Giống như mình nhóm lửa thì mình phải có mồi lửa ban đầu. Dẫn nhập giúp cho chúng ta có khái niệm tổng quát. Đúng ra thì việc dẫn nhập là việc rất là lợi ích, đầu tiên trước khi chúng ta đi vào chi tiết thì chúng ta nên có một cái khái niệm chung chung là bài học hôm nay sẽ nói về vấn đề gì, rồi phần thân bài tức là đoạn giữa là chúng ta khai triển đầy đủ và đoạn kết thì chúng ta phải có khả năng để tóm tắt lại, nhắc lại điều trên.

Tâm tư và trí tuệ của con người nó có một cách tình tự nhất định, dĩ nhiên là có nhiều trường hợp chúng ta tình cờ nghe một câu thơ hay bất chợt nghe ai nói điều gì đó thì chúng ta lãnh hội được, nhưng đa phần thì sự lãnh hội nhận thức của chúng ta nó đi theo một tình tự nhất định. Nếu chúng ta đã từng ngồi ở trên ghế nhà trường và nghe vị giáo sư giảng bài thì chúng ta hiểu rất rõ là một người nói chuyện mà khiến cho chúng ta hiểu rõ, thì người đó nói phải có đầu có đuôi. Lời nói có đầu có đuôi là lời nói đó có thể cho chúng ta khái niệm chung, nó phải có sự bắt đầu, rồi có phần khai triển, rồi sau cùng có phần tóm tắt lại. Nói có đầu có đuôi thì vấn đề được hiểu rõ ràng hơn, còn nói mà không có đầu có đuôi thì thật sự rất khó hiểu. Chúng tôi biết có một số người khi nào cần nói cái gì thì nói, nói ngang vậy thôi, bình thường thì chúng ta không để ý khi ở gần những người đó thì chúng ta mới nhận ra đó là cách nói chuyện của họ, nếu chúng ta không có thân thiết hay chúng ta không hiểu rõ thì thật sự là chúng ta không hiểu họ nói cái gì. Chúng tôi lấy ví dụ là đang ngồi ăn cơm vị đó nói về chuyện đi hành hương Ấn Độ, mà khi nói về chuyện đi hành hương Ấn Độ thì vị đó không nói là "à kỳ rồi chúng ta đi hành hương Ấn Độ Sư có nhớ là ông đó hay bà đó như vậy như vậy..., hay là mình lên chỗ đó như vậy như vậy...." mà vị đó cứ nói ngang là "Sư có thấy cục đá đặt ở lối vào vườn Lộc Giả như thế nào?" Nhiều lúc thưa qúi vị những người nói không có đầu không có đuôi như vậy khiến chúng ta không nhận ra rằng họ đang nói cái gì. Vì vậy tâm linh và trí tuệ của chúng ta tuy rất mẫn tiệp, rất nhanh chóng, nhưng trong cách truyền đạt thì bắt buộc chúng ta phải được có điểm khởi đầu có khái niệm trước rồi tiếp theo đó là khai triển mở rộng và sau cùng chúng ta tóm tắt lại để kết thúc đến chỗ chúng ta gọi hoàn mãn.

Đức Phật là một nhà giáo dục và có lẽ hơn ai hết khi Ngài giảng giải cho chúng thấy rằng Ngài chú trọng rất nhiều về phương pháp giảng giải. Bài học này là một thí dụ. Bài học này nhắc cho chúng ta thấy một điều là Đức Phật Ngài đã đi vào trong một số những chi tiết. Bây giờ chúng ta nói lại từng phần: Đức Phật Ngài nói có ba hạng người, hạng người với trí tuệ lộn ngược, hạng người với trí tuệ bắp vế, và hạng người với trí tuệ rộng lớn. Đó là phần mở đầu của Đức Phật. Bao giờ cũng vậy, khi Đức Phật Ngài giảng thì đầu tiên thường là Ngài đi vào trực khởi, không đi vào luân khởi, Ngài đi trực khởi Ngài nói rất rõ những gì mà Ngài nói, Ngài cũng có thí dụ luân khởi mà ít lắm, đa phần là Ngài đi thẳng vào đề tài nhưng Ngài tóm lượt lại mấy phần. Thí dụ ở đây Ngài nói có ba hạng người ở đời đó là; hạng người có trí tuệ lộn ngược, hạng người có trí tuệ bắp vế, và hạng người có trí tuệ rộng lớn. Rồi bắt đầu Ngài đi vào chi tiết thế nào là hạng người có trí tuệ lộn ngược. Đúng ra cách nói của Đức Phật không dư thừa mà rất trong sáng rõ ràng nếu chúng ta để ý thì chúng ta học được thật nhiều

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đi đến khu vườn (tinh xá) thường thường nghe pháp từ các Tỷ-kheo, các vị Tỷ-kheo thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh."

Đức Phật dạy rằng sơ thiện, trung thiện, hậu thiện tức là thuyết pháp tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, tốt đẹp ở đoạn cuối, nhưng ba cách căn bản này chúng ta thường hiểu rằng đó là pháp học, pháp hành, và pháp thành. Pháp học tức là giáo pháp được trình bày trên phương diện lý thuyết, pháp hành là giáo pháp được trình bày trên phương diện thực hành, và pháp thành tức là giáo pháp được trình bày trên phương diện chứng ngộ. Ba đoạn đó không trái trống nhau giống như một thứ thuốc uống khi chúng ta uống vào thì nó giảm đau lại có tác dụng tốt lâu dài, nó không có những tác dụng phụ, không dị ứng, không biến chứng, và cuối cùng là hết bịnh, do vậy chúng ta gọi là sơ thiện, trung thiện, hậu thiện là tốt đẹp ở đoạn đầu, ở đoạn giữa và ở đoạn cuối. Hay nói một cách khác là giáo pháp tốt đẹp ở chỗ lý thuyết, ở chỗ thực hành, ở chỗ chứng ngộ, có nghĩa, có văn, giáo pháp được trình bày rõ ràng ở trên hai phương diện ngôn từ và nghĩa lý trong sáng. Nhiều khi người ta nói rằng ngôn ngữ không cần thiết quan trọng là lấy ý thôi, nhưng mà ngôn ngữ nó là một cách diễn đạt. Hồi nãy chúng ta nói nếu mình trình bày một điều gì đó mà mình trình bày không trong sáng, không rõ ràng thì thật sự nó có vấn đề, dễ tạo ra hiểu lầm. Chúng tôi lấy ví dụ như là ngày nay người ta có hàng mấy trăm quyển giải thích về Lão Tử Đạo Đức kinh, và các nhà phê bình nói rằng Lão Tử Đạo Đức kinh thì có quá nhiều cách khác nhau không biết ai là người thật sự nắm được cái tinh yếu Lão Tử Đạo Đức kinh. Chuyện này dễ hiểu thôi. Lão Tử Đạo Đức kinh có nhiều điều rất thú vị nhưng có rất nhiều câu mơ hồ, mơ hồ đến đỗi mà ai muốn giải thích sao cũng được, như câu "Đạo khả đạo phi thường đạo," người ta có trăm cách giải thích. Đức Phật Ngài không bao giờ muốn giáo pháp được giảng dạy mơ hồ, hiểu sao cũng được, giải thích cách nào cũng được mà Đức Phật Ngài đặt nặng về sự trong sáng và sự tinh xác. Dĩ nhiên là nhiều vị không đồng ý, mà cho rằng đạo là ở chỗ nào có vẻ mơ hồ mới linh, mới đặc biệt. Nhưng chúng ta nên nhớ học pháp căn bản là ở chỗ thực hành và chứng ngộ, mà muốn thực hành thì lý thuyếp phải trong sáng và rõ ràng. Ngày nay phần nhiều chúng ta sống trong thời đại này có trăm muôn ngàn thứ mà chúng ta cần phải biết cái nào càng rõ ràng càng trong sáng thì cái đó càng lợi ích. Chúng tôi có đọc một số các cẩm nang hay sổ tay hướng dẫn, như hướng dẫn phương diện máy móc, xử dụng nhu liệu, chúng tôi thấy rằng ngay cả những công ty lớn có nhiều công ty họ viết cuốn cẩm nang mình đọc không hiểu gì hết cho đến khi một người nào đó kinh nghiệm họ lượt bớt cho chúng ta. Cái đó là khuynh hướng rắc rối và rõ ràng là cái khuynh hướng nào mà làm cho thân thiện gọi là friendly thân thiện trong sáng dễ hiểu là điều tốt nhất, chúng ta nói đến tinh thần phục vụ. Bởi vậy nó phải có nghĩa, nó phải có văn, trình bày phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Cho dù chúng ta sống trong thế giới phiền não tại vì bản thân của chúng ta có phiền não thì chúng ta phải nhìn nhận rằng Phật Pháp hướng chúng ta đến chỗ trí thiện, trí thiện đó là sự trong sạch kể cả đoạn lià những cái chấp trước, cái ngã chấp đối với các pháp

"Người ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài thuyết giảng ấy, không có tác ý đến đoạn đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối."

Là nghe pháp mà không để ý, một người nghe pháp có để ý thì người đó sẽ có khái niệm chung chung, giống như chúng ta coi một cuốn phim. Có nhiều người coi cuốn phim mà không hiểu phim diễn về cái gì là tại vì họ không chú ý. Nhưng một người tinh tế một chút, họ coi họ có chú ý đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối thì họ mới thấy những đoạn đó có liên hệ với nhau, những đoạn đó được nối kết lại với nhau. Chúng tôi thí dụ một người thợ may khi cắt vải họ cắt ra nhiều mảnh nhưng mà rồi họ dùng những đường kim sợi chỉ để kết những mảnh vải lại với nhau thành áo quần chúng ta mặc. Thì tương tựa như vậy tất cả những sự trình bày nó sẽ là những mảnh rời nếu chúng ta không để ý đoạn đầu đoạn giữa đoạn cuối.

"Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ý đến đoạn đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối. Ví như này các Tỷ-kheo, một cái ghè bị lộn ngược, nước chứa trong ấy tuôn chảy, không có dừng lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có hạng người đi đến khu vườn ... không có tác ý đoạn cuối. Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên ... không có tác ý đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người với trí tuệ lộn ngược."

Chúng tôi nhớ hồi còn nhỏ ở với Sư Trưởng, Sư Trưởng có nói một câu là ngay cả một vị giới tử thuyết trình, tức là lên đọc bài soạn sẵn thì Sư Trưởng ngồi lắng nghe và khám phá ở đó có nhiều điều hay để học. Một người có tâm nghe pháp chỉ cần nghe một bài kinh được đọc lên, nghe vị giảng sư nào đó nói một vài điều thì chúng ta cũng có thể học được, quan trọng là sự học hỏi của chúng ta. Có một vài lần chúng tôi đi hành hương với những phái đoàn Phật tử, chúng tôi có nhận ra một điểm này, có những người Phật tử đi đến một khu chợ, như kỳ rồi chúng tôi đến thành phố Mumbai của Ấn Độ, thì người ta dẫn chúng tôi đến một khu nhà ga ở chỗ đó như là một khu chợ trời, trăm muôn ngàn thứ bán các vật lưu niệm của Ấn Độ kể cả các Phật cụ, nhưng có vài Phật tử họ đi một buổi rồi quay về nói ở đây không có gì để mua hết thì chúng tôi cũng nhận rằng mỗi người có nhu cầu riêng. Sau đó có một số Phật tử khác cũng đi cùng chuyến họ lại mua được một số vật kỷ niệm của người Ấn Độ bán ngoài chợ và khi về tới khách sạn thì những người kia nói "tại sao nãy mình đi mà mình không thấy." Cũng đi mà không thấy, và dù có thấy cũng không để ý nhiều. Chúng tôi nhận ra rằng có một lý do rất đơn giản, đó là đa số những người sống tại Âu Mỹ quen đi mua sắm ở những khu shopping có tánh cách gọi là sắp đặt nhất định. Thí dụ như mình cần mua quần áo thì đi đến tiệm chuyên bán quần áo, mình cần mua thức ăn thì đến tiệm chuyên bán về thức ăn và ngay cả những khu shopping có những khu bình dân, có những khu giàu có, và có những khu có tánh cách trang trí và những thứ mà chúng ta dùng như là quần áo giày dép thì nó cũng có phân loại riêng như những Departments Store chẳng hạn. Bằng thói quen đi shopping đó khi qúi vị đi vào chợ trời thì thật sự là khó để shopping lắm, tại vì chúng ta thấy ở đó nó lộn xộn không có thứ lớp gì hết, có những cửa hàng của người Tây Tạng bán Phật cụ tuy gian hàng rất nhỏ nhưng có một số tượng Phật có thể thỉnh được nhưng những vị này hoàn toàn không để ý, chúng ta quen sống ở trong cái nếp nào đó đi qua chỗ xa lạ thì chúng ta không có nhận ra. Thì cũng tương tựa như vậy, một số các vị có thói quen là mình học Phật Pháp thì phải đến chùa ngồi ở trong chánh điện rồi phải có vị Pháp Sư đăng toà thuyết pháp, rồi trong đó phải chuông trống rầm rộ mới gọi là học Phật Pháp. Còn bình thường mà nói một cách rất gọn rất ngắn không bày vẽ mang nặng về hình thức thì chúng ta không để ý. Tuy nhiên nếu chúng ta đi vào trong kho tàng kinh điển của Đạo Phật thì thấy rằng rất nhiều trường hợp, Đức Phật Ngài đã giảng cho những người Ngài gặp dọc đường, Ngài giảng cho những người đến đảnh lễ Ngài, ở trong một bài giảng rất ngắn vậy mà thay đổi tâm tư của người đó. Do đó nếu chúng ta quen thuộc với Phật Pháp thì một quyển pháp nhỏ cũng đáng cho chúng ta lưu tâm chứ không phải là chúng ta cần đến cả bộ kinh điển to lớn. Nhưng thí dụ đầu tiên Đức Phật Ngài thí dụ ở tại đây là trí tuệ lộn ngược nghe cũng thú vị, đầu óc của chúng ta tiếp thu không có khả năng chất chứa để chứa đựng như bình đựng nước bị lộn úp lại, đã bị lộn úp lại thì đâu chứa đựng được cái gì. Chúng tôi nhớ ở trong thiền tông có câu chuyện là đầu óc của một người mà có nhiều sự cố chấp thì giống như một ly trà và đã đầy rồi có chế thêm vào cũng tràn ra, nhưng câu chuyện thí dụ ly trà tràn ra thì chúng tôi nghĩ rằng nó cũng còn có thể chứa ít hoặc nhiều, còn ở đây nói trí tuệ lộn ngược thì nó không chứa được cái gì hết.

Đức Phật Ngài lại nói đến trường hợp thứ hai là có người lắng nghe và cũng có nhận thức nhưng mà rồi chỉ nghe và nhận thức ngay chỗ mình ngồi thôi khi đứng lên thì quên hết tất cả, đây là trường hợp xảy ra rất thường. Chúng tôi có một vị sư đệ là ĐĐ Giác Nguyên mà thường qúi vị nghe là ĐĐ Uyên Minh. Vị nào nghe sư Uyên Minh thuyết pháp rồi thì biết là Sư Uyên Minh thuyết pháp rất vui, nhưng nó lại có một chuyện là sư Uyên Minh đôi lúc sư thuyết pháp vì quá vui nên qúi Phật tử ngồi nghe sư thuyết pháp chỉ cười, mỗi lần chúng tôi về bên Tampa, Florida, sư thuyết pháp ở trên chánh điện có khi Phật tử ngồi cười từng chập, nhưng sau đó có người khi gặp những người khác họ nói bữa nay sư Uyên Minh thuyết pháp hay quá vui quá, rồi người ta hỏi là sư Uyên Minh nói cái gì thì vị Phật tử đó nói rằng không nhớ được chỉ biết là rất hay. Biết rất hay mà không nhớ được thì chuyện đó rất là bình thường. Tức là lúc sư Giác Nguyên thuyết pháp quí Phật tử rất là vui nhưng mà vì quá vui với cái duyên dáng với sự chọc cuời của sư Giác Nguyên và cũng có thể là quí vị chỉ lo để ý đến cái gì vui thôi nên vị đó không nhớ được pháp, khi bước ra khỏi chánh điện biểu lập lại cái sư Uyên Minh nói thì không nhớ, họa hoằn lắm thì mới nhớ được một chuyện. Chúng tôi nghĩ việc đó cũng là một việc bình thường, như đa phần chúng ta đi nghe pháp, ngồi trong pháp hội, lúc nghe lúc ngồi mình nhớ được nhiều thứ nhưng nghe xong thì quên hết, về điểm này thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng mỗi người có một tư chất, cái tư chất đó là trí nhớ và sự thẩm thấu. Nói điểm này thì chúng tôi nhớ đến câu chuyện người ta nói rằng ở bên Tây có hai vợ chồng, bà vợ khi coi phim ở trên TV hay trong rạp thì chỉ nhớ đến một việc là Tây trắng với Tây đen thôi, cứ Tây trắng đánh Tây đen, ông này ông kia không nhớ tên nhớ tuổi gì hết chỉ nhớ người này đánh người kia và đôi khi bà vợ nhắc lại chuyện phim làm ông chồng phải suy nghĩ rất nhiều mới nhận ra là bà vợ nói cái gì, mặc dù lúc coi phim thì người ta cũng cảm thấy hay cũng biết được nhân vật này nhân vật kia nhưng sau đó không có khả năng nhớ và gìn giữ lại. Thì Đức Phật Ngài có một cái ví dụ ở tại đây mà chúng ta đọc ở đoạn thứ hai

"Ví như này các Tỷ-kheo, trên bắp vế của một người, các loại đồ ăn được chồng lên như hạt mè, hột gạo, các loại kẹo và trái táo. Khi từ chỗ ngồi đứng dậy, vì vô ý, người ấy làm đổ vãi tất cả."

Ở đây gọi là trí tuệ trên đùi hay trí tuệ bắp vế, thì cái gì mình để trên đùi hay bắp vế khi đứng dạy bị đổ hết, khi mình nghe Pháp, khi mình lắng nghe hội luận hay thuyết trình mà lúc nghe thì nghe rất là nhiều, cười trong cái cười chung, vui trong cái vui chung, xúc động trong cái xúc động chung nhưng khi đứng dạy thì quên tất cả thì chúng ta nhớ rằng lúc đó cái trí tuệ người ta giống như trí tuệ bắp vế, cái gì để trên đùi thì khi đứng dạy đi mất hết.

Và sau cùng Đức Phật Ngài đề cập đến một thứ trí tuệ gọi là trí tuệ rộng lớn, trí tuệ này biết lắng nghe, biết lãnh hội và biết thẩm thấu tức là biết tiêu hóa. Đoạn này Đức Phật Ngài dùng nhiều thí dụ, ở trong một thí dụ Ngài nói rằng cái lưỡi mà tinh tế dù chỉ nếm một chút vị canh thì cũng cảm nhận được mùi vị của vị canh, hay là một người có mắt tinh tế thì khi có ánh sáng họ nhìn thấy họ sẽ nhận ra được vật nào xấu, vật nào đẹp, vật nào gần, vật nào xa. Người có tinh tế thì họ rất dễ nhận ra pháp nào là pháp nào. Có một sự việc mà đôi lúc thật ra chúng ta không thể truyền cho nhau được, chúng tôi lấy một ví dụ ở đây không phải nói để tự phụ, nhưng việc học Phật Pháp cũng có một điều là vị nào quen đọc kinh điển hay thường đọc sách cầm lên một quyển sách chỉ đọc thoáng vài ba trang hay chỉ nhìn lượt qua thôi thì đa phần là có thể đánh giá được quyển sách đó có giá trị hay không có giá trị, nhất là khi chúng ta đứng trước một tủ sách lớn, nhưng một người không quen thuộc với việc đó thì đứng cả ngày lựa hết cuốn sách này đến cuốn sách kia rốt cuộc lựa cuốn sách nào bìa đẹp nhất in đẹp nhất mang về, nhưng đẹp nhất về hình thức không nhất thiết là có giá trị về nội dung. Khi chúng tôi ở Sàigòn với HT Tịnh Sự thì chúng tôi có đem tâm sự này nói với một người ở trong chùa đó là cô Tư Yên, bây giờ cô đã mất rồi, cô là người nấu ăn cho HT ở trong chùa. Có lần tôi nói với cô Tư là nếu mình quen thuộc với sách vở thì không cần đọc hết cả ngàn trang mình mới biết giá trị của cuốn sách, mình cầm cuốn sách lên đọc cách họ chú thích, cách họ viết thì mình có thể nhận được giá trị của cuốn sách. Cô Tư Yên cười và nói cho chúng tôi nghe một thí dụ mà chúng tôi vẫn nhớ đến bây giờ, cô nói rằng: "Chuyện đó giống như đi chợ sư ơi. Một người biết đi chợ hay quen đi chợ, ra chợ ngó thoáng qua là biết cái nào mình nên mua, cái nào nó tươi cái nào nó tốt thì mình mua, còn người không quen đi chợ đi ra mua trái cây thì trái cây không ngon, đồ ăn thì lại không tươi mà mua mang về, tại vì không biết đi chợ."

Cái biết và cái không biết, cái tinh tế và cái không tinh tế, cái chính xác và không chính xác này nó là cái khéo mà đôi khi chúng ta rất khó để giải thích. Ở trên cuộc đời này người ta gọi là một chợ đời có trăm muôn ngàn thứ cho mình lựa chọn, nào là bạn bè, nào là sách vở, nào là những gì nên nghe và không nên nghe. Có Phật tử nói với chúng tôi rằng không hiểu tại sao mà những chuyện thị phi ông này bà kia nghe xong thì nhớ liền, thí dụ như nghe người ta nói xấu bà này thế này bà kia thế kia thì dễ nhớ, nhưng sao nghe Phật Pháp thì cứ lùng bùng bên tai vậy, không nhớ được. Thì thưa qúi vị, chúng tôi cũng phải nhìn nhận rằng quen trong cảnh giới nào thì mau mắn để ghi nhận, mau mắn để lãnh hội, mau mắn để ghi nhớ về điều đó, nó quen thuộc thôi. Do vậy bình thường chúng tôi có sự cố ý đó là chúng tôi không viết lại những bài kinh mà chúng tôi đem nguyên chánh văn bài kinh vào trong lớp học, qúi vị đọc thì hơi khó nghe, tại vì có nhiều đoạn dịch nguyên văn thì nghe hơi khác với chúng ta một chút xíu, nhưng chúng tôi muốn qúi Phật tử có cơ hội làm quen với văn phong của kinh điển, khi chúng ta làm quen với kinh điển rồi, như ở trong lớp học này có nhiều Phật tử nói với chúng tôi rằng hồi xưa đọc kinh rất ngán, bây giờ đọc kinh bắt đầu thích là bởi vì quen thuộc với sự hành văn với văn phong, với cách trình bày kinh điển, đó là một điều lợi cho chúng ta, khi chúng ta quen với điều gì thì chúng ta dễ phân biệt, dễ đón nhận, dễ lãnh hội, dễ nhận thức, và thế giới đó là một thế giới mở rộng ra, chúng ta đi vào thế giới đó chúng ta được một điều mới và đi vào thế giới đó là chúng ta tìm thấy được cả một vùng trời cao rộng.

Thỉnh thoảng có nhiều vị text chat riêng với chúng tôi, qúi vị đó cũng đồng ý một điều là nghe pháp là một điều rất an lạc nhất là nghe những đoạn đọc từ kinh điển, chúng tôi phải thưa với qúi vị rằng những lúc chúng tôi đọc kinh điển đôi khi chúng tôi cảm thấy Đức Phật như một ông cha Ngài ngồi đó Ngài dạy một cách rất là cặn kẽ cho những đứa con của mình, các vị tỳ kheo tỳ kheo ni, thiện nam tín nữ, Ngài chỉ dẫn rất nhiều điều như bài học này qúi vị nghe Đức Phật Ngài giảng Ngài không nói những điều xa xôi huyền hoặc, Ngài nói những điều rất thực tế, và ở trong kinh điển không phải có một hay vài thí dụ như vậy mà có hàng trăm hàng ngàn thí dụ như vậy. Và với cá nhân của chúng tôi đi vào thế giới đó thì quả thật là một thế giới thân quen, ở ngoài cuộc sống bình thường có bao nhiêu là hệ lụy phiền phức nhưng trở về đọc lại kinh điển, lật từng trang kinh thì tìm về một thế giới quen thuộc, thế giới đó quả thật là cho chúng ta rất nhiều.

Mấy hôm nay chúng tôi đang soạn chú thích những bức tranh về cuộc đời của Đức Phật, có 108 bức tranh như vậy, chúng tôi làm việc này không thấy cực mà cảm thấy rất vui là khi soạn thì mỗi một bức tranh chúng tôi có một câu thơ lục bát ngắn, ví dụ như trong bức tranh về Đức Bồ Tát lúc Ngài đứng ra nhận công quả dọn một con đường để rước Đức Phật Nhiên Đăng, nhưng khi Đức Phật Nhiên Đăng đến thì Ngài vẫn chưa hoàn tất con đường đó và Ngài đã nằm xuống thỉnh cầu Đức Phật và Chư Tăng bước lên người của Ngài để đi qua, và cái việc làm với tấm lòng cao qúi đó Ngài đã phát nguyện là Ngài sẽ thành Phật trong tương lai, Đức Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ngài. Chúng tôi chú thích là: 
"Kiếp xưa đại nguyện cúng dường
Hình hài gieo xuống trải đường Phật đi."

Chúng tôi làm những vần thơ như vậy tuy rất ngắn, theo thể lục bát, nhưng chúng tôi muốn rằng những vần thơ đó được qúi vị nào đọc dễ nhớ khi liên tưởng đến ý nghĩa của bức tranh, trong lúc soạn những chú thích của những bức tranh này thì trong lòng của chúng tôi rất vui và rất an lạc, là tại vì sao? là tại vì đó là một thế giới thân quen khi chúng ta đọc lại những giai thoại liên quan đến cuộc đời của Đức Phật thì chúng ta thấy rằng Đức Phật là bậc đại phúc, đại đức, đại từ, đại bi. Có người thương Ngài, có người ghét Ngài, có người phỉ báng Ngài, có người lắng nghe Ngài, có người mạ lỵ Ngài, nhưng mà với tất cả thì Đức Phật có một thái độ của bậc giác ngộ, thái độ của bậc tỉnh thức, chúng ta đọc những đoạn đó chúng ta thấy an lạc vô cùng.

Và bài học ngày hôm nay chúng ta thấy Đức Phật Ngài dạy về ba hạng người: hạng người với trí tuệ lộn ngược, hạng người với trí tuệ như bắp vế, hạng người với trí tuệ rộng lớn. Nghe thì có một chút khôi hài nhưng nó là một thực tế mà chúng ta thấy trong đời sống. Trí tuệ bị lộn ngược giống như một cái ghè đựng nước mà nó úp xuống thì nó không chứa được cái gì hết, trí tuệ như bắp vế là cái gì để trên đùi của chúng ta rồi đứng dạy nó rớt xuống hết, nhưng trí tuệ rộng lớn là người biết lắng nghe, lắng nghe đây là chú ý đoạn đầu, chú ý đoạn giữa, chú ý đoạn cuối, chẳng những biết nghe mà còn biết lãnh hội, chẳng những lãnh hội mà còn biết tiêu hóa nữa thì như vậy là một người biết hưởng nhiều sự lợi lạc. Đó là ý nghĩa của bài học này./.