Thursday, August 27, 2015

Bài giảng của TT Giác Đẳng trong Đại Học Hè 2015

(Xin lưu ý: Tất cả những bài chuyển biên chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng người chuyển biên xin đề rõ tên người chuyển biên) 

Đề tài: Khi mình gặp chuyện khó khăn,, bị những phiền não, buồn phiền, căng thẳng, đau khổ, tủi thân v.v... chúng ta nên làm gì? đặc biệt trong trường hợp cá nhân của chúng tôi. 

Bài giảng trong lớp Tu Học Đại Học Hè 2015 tại chùa Pháp Luân, Minh Hạnh chuyển biên 

TT Giác Đẳng: Qua những biến động liên quan đến nội tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dẫn đến việc chúng tôi xin từ chức Quyền Chủ Tịch Điều Hành. Trong mấy hôm nay chúng tôi nhận được nhiều cuộc gọi điện thoại của qúi Phật tử hầu hết là những người lo và quan tâm đến chúng tôi, hỏi han an ủi và ủng hộ tinh thần chúng tôi ở trong những lúc khó khăn này.

 Có một điều, và có một số người hỏi chúng tôi khi mình gặp chuyện khó khăn,, bị những phiền não, buồn phiền, căng thẳng, đau khổ, tủi thân v.v... chúng ta nên làm gì? đặc biệt trong trường hợp cá nhân của chúng tôi. Chúng tôi nhân buổi sinh hoạt hôm nay chia sẻ với qúi Phật tử một vài điều về điểm này.

Nói chung, bản thân chúng tôi một vị tu sĩ thì ở trong bất cứ hoàn cảnh nào mà khó khăn chúng tôi thường dùng Phật Pháp để làm giảm thiểu hoặc hóa giải những phiền lụy ở trong lòng mình. 

Chúng ta nói đến 2 phương diện: Phương diện cảm xúc, phương diện lý trí.

1- Phương diện cảm xúc.

Phương diện cảm xúc là một phương diện trong Phật Pháp chúng ta rất ít khi để ý, có nhiều Phật tử nghĩ Phật Pháp nặng về lý trí không nặng về cảm xúc, và cảm xúc không có chỗ đứng nhiều trong việc thực hành trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng kỳ thực,  nếu chúng ta nhìn về một phương diện nào đó thì Pháp cũng có đề cập những phương cách thực hành trong lúc khó khăn để chúng ta tìm sự bình tỉnh an ổn tinh thần trên phương diện cảm xúc. 

Ngài Ajahn Jayasaro nói phương pháp niệm như niệm Phật, niệm pháp, niệm thí, niệm giới, niệm về Chư Thiên nặng sự an ủi về cảm xúc hơn. 

Chúng tôi nhớ Ngài Ajhan Sumedho là một vị Tăng người Mỹ kể lại kinh nghiệm của Ngài khi ở trong rừng sâu, ở một mình, gặp thú dữ hay trong hoàn cảnh Ngài sang Anh quốc hoằng pháp gặp khó khăn Ngài thường dùng câu:

Buddham saranam gacchami, 
Dhammam saranam gacchami, 
Sangham saranam gacchami 

Nghĩa là: 

Con nương tựa với Phật, 
Con nương tựa với Pháp,
Con nương tựa với Tăng. 

Người VN chúng ta hay thường dịch là: Con qui y Phật, con quy y Pháp, con quy y Tăng. Thì giống như mình từ một người xa lạ trở về quy y tức là mình hồi đầu quy ngưỡng theo Phật. Nhưng thật ra trong câu tiếng Phạn không có nghĩa như vậy, trong tiếng Phạn nghĩa là mình nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng và trong hoàn cảnh nào mình cũng nương tựa được.

Ngài nói khi Ngài đọc câu đó Ngài cảm thấy mình vững lòng. 

Niệm Chư Thiên. Có nhiều người nghĩ đến tu tập, thí dụ hôm nay mình đi chùa nghe Pháp, tụng kinh, hay làm phước xong mình hồi hướng phước đến Chư Thiên. Và trong lúc khó khăn thì mình cầu Chư Thiên gia hộ mình. Đó cũng là một cách cho mình cảm xúc được quân bình.

Chúng ta niệm thí, niệm giới, niệm sự chết cũng là cách để mình quân bình cảm xúc. 

Niệm thí. Cách này chúng tôi thấy Ngài HT Hộ Giác Ngài áp dụng. Ví dụ như khi mình giận người nào đó, hay người nào đó đối xử xấu với mình thường mình gặp người đó mình không muốn nhìn mặt, không muốn nói chuyện với người đó. Nhưng chúng tôi thấy rất nhiều lần có những vị Thầy công kích đả kích Ngài Hộ Giác, khi họ đến chùa Ngài lấy gói trà ngon nhất pha để đãi vị đó. Nhiều khi chúng tôi nghĩ Thầy đó nói mình như vậy sao mà Ngài lại hậu ý, trà ngon mang về từ Đài Loan mắc tiền Ngài đem ra pha đãi họ uống. Nhưng Ngài Hộ Giác Ngài có bí quyết để gìn giữ đời sống Ngài an lạc là khi mình cho người ta cái gì thì cho cái tốt nhất dù người đó là kẻ thù của mình  thì ít nhất trong lòng mình dễ chịu hơn là mình thắc mắc mình chửi  với họ. Thành ra khi nào qúi vị có giận ai thì cứ thử theo cách của Ngài. Mình tử tế với người đó một chút, cho người ta ăn ngon hay mời một ly cafe ngon, ly trà ngon, cái gì ngon cho người ta. Ở trong sự ban bố ban tặng của mình cũng làm cho mình dễ chịu hơn. Nhưng chúng tôi nói là chuyện đó không bảo đảm, phải là người có bản lãnh lắm mới có thể làm được.

Niệm sự chết. Cách này Ngài Hộ Giác Ngài cũng chỉ chúng tôi một cách rất hay. Ngài nói: bình thường mình không qúi con mắt của mình, nhưng bây giờ tình cờ mình bị chuyện gì đó làm mù mắt thì lúc bị mù mắt mình nghĩ tất cả các tai nạn khác trên thế gian này không có quan trọng, đặng danh mất danh, đặng lợi mất lợi, làm sao cứu được con mắt chứ con mắt mình đui rồi khổ quá. Nhưng lúc mình có con mắt  mình không thấy con mắt quan trọng nhưng giả xử như chúng ta bị đui mắt rồi không đọc báo được, không nhìn mặt người thân được, không vào internet được, không lái xe được thì lúc đó mình nói rằng ở trên đời cái gì mình cũng đánh đổi được miễn sao có con mắt sáng thôi. Thì Ngài dạy rằng mình nên nghĩ đến chuyện tệ hơn. 

Chúng tôi có quen với một Phật tử, vị này hưởng được tài sản thừa kế của ông cha bà mẹ ở VN, có căn nhà ở Sàigòn chết để lại cho 3 đứa con. Trước khi gia sản  để lại thì 3 người rất thương nhau, ở VN buôn bán rồi lâu lâu qua Mỹ thăm và người bên Mỹ thì về VN thăm. Cho đến khi vì chuyện chia căn nhà đó anh em không nhìn mặt nhau và hầu như trở nên kẻ thù của nhau. Ông ở Mỹ có tiền, ông bỏ ra số tiền rất lớn để kiện tụng với đứa em ở VN. Khi ông kiện tụng ông thắng kiện thì khoản 3 tuần lễ sau ông về Mỹ. Rồi trong người ông có triệu chứng gì đó và đi Bác sĩ thì phát hiện ra ông bị ung thư gan. Chúng tôi được mời đến để tụng kinh. Tại vì trước khi chuyện xảy ra bịnh ung thư gan ông vẫn thường kể cho chúng tôi về mấy người em ở VN dành  gia tài. Khi chúng tôi đến ngồi nói chuyện với ông và thật sự khi gặp ông đã muộn rồi, bụng ông cứng lên, đang làm chemotherapy để trị ung thư gan. Lúc đó chúng tôi hỏi ông một câu là: "Bây giờ ông đang bịnh mà nghĩ chuyện tài sản kiện tụng ở VN hơn thua có ý nghĩa gì không?" Thì ông nói với chúng tôi: "Con nói thiệt với Sư bây giờ có cho vàng cũng không có ý nghĩa gì". Chúng tôi gặp anh thì hai ngày sau anh mất. 

Niệm sự chết nó ảnh hưởng chúng ta rất quan trọng trong đời sống, khi mình nghĩ đến cái chết rồi thì mình không đặt nặng những chuyện hơn thua những chuyện lợi danh được mất trong đời sống.

Thì những pháp như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm Chư Thiên chúng tôi tin rằng  có tánh cách về cảm xúc.

2 - Phương diện lý trí.

Bây giờ chúng ta nói về phương diện lý trí. Phương diện cảm xúc là chúng ta nói cái vui, cái buồn, cái khổ, cái phẫn nộ của chúng ta. Bây giờ chúng ta nói về phương diện lý trí tức là mình có một chút sáng suốt mình ngồi suy niệm, mình có chút bình tỉnh mình suy niệm. Và dĩ nhiên là chúng ta suy niệm về những lời Phật dạy. 

Trước nhất, chúng tôi  chia sẻ về một câu kinh Đức Phật. Một lần Đức Phật Ngài ở thành Vương Xá Ngài ngồi với Chư Tỳ Kheo, vào khoản 11 giờ khuya, chúng tôi đoán vậy là cũng hơi khuya một chút, thì có tiếng tru của con giả can. Giả can là tiếng Hán, trong tiếng Việt chúng ta dịch là chó rừng, ngày xưa chó rừng nhiều lắm, bây giờ chúng ta tạm gọi là chó hoang. Thì tiếng tru của nó đau khổ lắm. Đức Phật Ngài đang ngồi đó nghe tiếng chó tru Ngài hỏi chư Tỳ Kheo:

"Này chư Tỳ kheo, các Thầy có nghe tiếng con giả can tru trong đêm trường không?"

Các vị Tỳ Kheo chắp tay: "Bạch Đức Thế Tôn con có nghe'. 

 Đức Phật lại hỏi: "Các Thầy có biết tại sao con giả can tru không? Đó là một con giả can già trên người có ghẻ, và trên người có ghẻ trời ban đêm lạnh làm nó nhức nhối chua xót, tại vì nó nằm không yên ngủ không yên thì nó mới tru lên như vậy". 

Và Đức Phật dạy: "Này Chư Tỳ Kheo, một người sống bị danh lợi chi phối, đặng danh mất danh, đặng lợi mất lợi, đêm trường thao thức trằn trọc khổ đau thì giống như con chó bị ghẻ đó".

Qúi vị nghe đau khổ phải không? Thật sự đời sống chúng ta đôi khi cũng trải qua như vậy, giống như con chó ban đêm bị đau khổ vì nhức nhối. 

Điểm đặc biệt trong Phật Pháp trên phương diện lý trí không phải bao giờ cũng áp dụng được, nhưng ở trong mọi hoàn cảnh thay vì mình nhìn chuyện đó như thế này như thế kia theo quan niệm của mình thì mình nên nhìn vào chính bản tâm của mình, mình khổ như thế nào. Thật sự mình thấy cái khổ mà Đức Phật Ngài nói khổ giống như con chó ghẻ ban đêm bị đau thì không ai trong chúng ta muốn điều đó, mình không muốn mình bị như vậy. Và có nhiều khi điểm tốt nhất là mình nên nhả nó ra, mình nên buông nó ra, tại vì giữ cái khổ để làm gì, mình thấy con chó ban đêm nó tru tréo nó đâu có hạnh phúc gì đâu. Thật ra cái khổ chính do ở mình. 

Thành ra, ở trong cách sống của người Phật tử, ở trong cách tu đó là trong mọi hoàn cảnh mình nên nhìn vào nội tại của mình để xem mức độ mình phiền não, mức độ mình khổ đau ra sao. Nó là một bài học rất lớn, nó là cái gì đó  cho chúng ta. Đạo Phật gọi là "Chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" tức là những lúc đó chúng ta cảm thấy mình mạnh mẽ lắm, mình  có quan niệm thế này, quan niệm thế kia, nhưng sau đó rồi chỉ là chuyện một cơn mê một sự u mê mà thôi. 

Hồi trước chúng tôi có thời gian làm việc cho bên cảnh sát Houston, họ nhờ chúng tôi trong vai trò vị tu sĩ đi thăm một số người tù VN phạm pháp, chúng tôi đi 3,4 lần, thì chúng tôi gặp những em thanh thiếu niên, thật tội nghiệp, các em đi chơi đi khiêu vũ rồi trong lúc dành giựt bạn trai bạn gái rồi nổi giận muốn tỏ ra là mình mạnh, mình hay, ra xe lấy súng lấydao đánh nhau, bây giờ ở tù thì lúc mình làm chuyện đó mình nghĩ là mình hay mình giỏi nhưng lúc mình ở tù thì thấy sao lúc đó mình dại quá. Tại ở trong đời sống đạo Phật Đức Phật Ngài dạy là sự chuyển mê khai ngộ, là ở trong lúc xảy ra chuyện mình phải bình tỉnh mình thấy chuyện đó không phải giống như mình nghĩ, mà nó là hệ quả rất là lớn và cái hệ quả đó dẫn bao tang thương, mà lúc đó mình nghĩ mình anh hùng hay lúc đó mình nghĩ thế này thế kia nhưng thật sự không phải vậy. 

 Đức Phật Ngài có dạy chúng ta hai câu trong kinh Pháp Cú phẩm Yamaka-Song Yếu : 

"Những người tranh chấp, không hiểu biết là mình  sẽ bị tiêu diệt. Ai hiểu được điều này, thì tất cả sự tranh chấp sẽ lắng dịu.  Người khác không hiểu biết, ở đây ta bị hại, ai hiểu được điều này tranh luận tự nhiên tiêu" 

Hai bên chửi nhau, hai bên tranh dành nhau, mình tưởng đâu là mình ngon, mình thắng người bại nhưng ruốt cuộc cả hai đều kéo nhau vào chỗ diệt, chúng ta thấy rất nhiều, nhiều thứ trong đời sống này. 

 Đức Phật Ngài có dạy một câu nghe thì không có đẹp nhưng nếu chúng ta nghiệm lại thì rất đẹp, kinh Pháp Cú như vầy là

Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi 
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.

Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi 
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù sẽ tự nguôi.

 Thật sự câu này không đơn giản là một câu nói bình thường của Đức Phật mà câu đó Đức Phật Ngài dạy chúng ta chưa có hiểu được bản chất của sự luân hồi, bản chất của kiếp sống này. Và bởi vì chúng ta không hiểu được bản chất đó do vậy mình sống bằng quan niệm nhân ngã bỉ thử là mình với người. Và khi cái nhân ngã bỉ thử tôi với người khác như vậy điều đó nó chất chồng bao nhiêu phiền lụy. Để vượt khỏi nhân ngã bỉ thử này thì cái nhìn của chúng ta phải thoáng hơn và nó phải đại quang hơn chứ không thể nào nhìn khi mình gặp chuyện gì phiền mình nói là ông đó hại tôi, ông đó chửi tôi, ông ấy xấu, ông ấy thế này thế kia, mình nghĩ chuyện đó mà mình vượt qua, không có.

Thì làm sao để chúng ta vượt qua cái nhìn đó, làm sao chúng ta vượt qua cái nhìn mà người ta đánh người ta mắng? Để chúng ta có một cái nhìn đại quang một cái nhìn chung của đời sống Đức Phật Ngài khuyên chúng ta nên nhìn với bản chất của đời sống. 

Chúng tôi lấy thí dụ, nếu chúng tôi gặp những phiền lụy, chúng ta nghĩ người kia họ xấu với mình, người kia có ác ý với mình, muốn hại mình và người kia họ làm xấu, cái nhìn mình với người như vậy ở trong cách nói người ta gọi là nhân ngã bỉ thử, mình và người. 

Nhưng bây giờ mình thử nhìn bằng cách này. Trong Trung Bộ Kinh Đức Phật Ngài hỏi:

"Này chư Tỳ Kheo, thế nào là bản chất nguy hiểm của các dục?"

Đức Phật Ngài tự hỏi và Ngài trả lời bằng cách đon giản: 

"Này các Tỳ Kheo, do các dục nên cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha, anh tranh chấp với em, em tranh chấp với anh, vợ với chồng, chồng với vợ tranh chấp với nhau và cả thế giới này đi vào chỗ điên đảo cùng cực"

Thì khi chúng ta nói đến cái nhìn vượt lên sự bình thường, Đức Phật nói bản chất nó như vậy, ở trong chỗ nào danh lợi chức quyền thế này thế kia thì nó luôn luôn hứa hẹn sự cấu xé, sự đánh nhau, sự dành giựt, nó là bản chất tự nhiên của nó.

Có một vị Alahán khi vị Thầy dùng cán quạt làm chảy máu con mắt của Ngài và vị Thầy xin lỗi, thì vị Alahán nói rằng: 

"Thưa Sư Phụ, đây không phải lỗi của Sư Phụ, không phải lỗi của con, mà là lỗi của sự luân hồi". 

Câu nói rất là ý vị, mình phải nhìn vấn đề, không thể nào trong những chuyện đó mà nó không có hụt hẵn, không có trục trặc, không có lời qua tiếng lại, bản chất nó là như vậy. Khi chúng ta có cái nhìn đại quang như vậy thì chúng ta sẽ vượt lên trên cái gọi là nhân ngã bỉ thử: nó mắng tôi, nó đánh tôi, nó chửi tôi, nó cướp tôi. Nếu chúng ta vượt lên trên nó thì ít nhất chúng ta làm tắt đi sự hận thù trong lòng. Nhưng chuyện đó không phải là chuyện dễ.

Ngày xưa khi còn ở trại tị nạn, chúng tôi tình cờ đọc một bài viết của một vị linh mục. Khi chúng tôi ở trại tị nạn với tình trạng khan hiếm báo nên báo nào đem đến cũng đọc, đọc ngấu nghiến. Lúc đó chúng tôi đọc một bài báo trên tờ Dân Chúa,  ở trong đó vị linh mục viết gửi cho 2 tín đồ mới cưới nhau. Vị linh mục viết rằng: 

"Thật ra khi bắt đầu cuộc hôn nhân xây dựng tình yêu ai cũng nghĩ rất là đẹp và có cái ngọt ngào, một hương vị tất cả mọi người tha thiết, đều mong đợi, nhưng 2 con nên nhớ  ở trên căn bản cuộc sống  nó luôn luôn chứa đầy những vui, khổ, hay, dở, tốt và xấu,  2 con phải chuẩn bị cho tất cả những thứ đó chứ không thể nghĩ mình chỉ chờ có một thứ mà thôi". 

Chúng tôi nghĩ đó là lời viết rất hay. Ở trong đời sống chúng ta tại sao chúng ta tức, tại sao chúng ta bực? Là tại vì sự kỳ vọng chúng ta chỉ có một chiều thôi, mọi việc phải tốt. Qúi vị đi chùa, qúi vị đâu mong ai làm phiền mình, đúng không, qúi vị đi chùa là mong tất cả mọi người rất là lịch sự, rất là hiền hoà, rất là dễ thương, nhưng mình đi chùa gặp người không lịch sự mình đâu muốn ở lại "ủa sao chùa kỳ vậy!" Nhưng thật sự không phải vậy. Cuộc sống dầu trong chùa ngoài chợ hay ở đâu cũng có mặt này hay mặt khác, có cái này có cái kia. Nhưng chúng ta không chịu đưa cái nhìn vượt lên trên điều đó để chấp nhận  hình ảnh chung. 

Bởi vậy hồi nãy chúng tôi nói là Đức Phật dạy: "Này các Tỳ Kheo, thế nào là nguy hiểm các dục? Nguy hiểm các dục là cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha, anh với em, em tranh chấp với anh, vợ với chồng, chồng với vợ". Tại vì sao vậy? Tại bản chất nó là như vậy. Ba anh em rất thương cha thuơng mẹ nhưng đến khi để tài sản lại ba anh em kéo nhau ra tòa và không nhìn mặt nhau, chuyện đó là chuyện rất bình thường của đời sống và Đức Phật Ngài nói đó là bản chất của đời sống. Nếu chúng ta nghiệm được điều đó, chúng ta thấy được điều đó thì chúng ta sẽ có thể vận dụng lý trí của mình. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể vận dụng lý trí của mình được.

3.- Và điều thứ ba. 

Chúng tôi nghĩ trong sự đối diện hay đương đầu với những khổ đau phiền muộn của cuộc sống mỗi người nên vận dụng nội lực của mình để thấy được chuyện vui hay khổ, căn bản là do mình. Đừng đổ thừa  người khác. Nếu mình tiếp tục đổ thừa người khác thì mình sẽ toàn trách móc. Qúi vị thấy mình trách móc người ta từ ngày này qua ngày khác nhưng rồi cũng không đi đến đâu hết. Các vị Thiền Sư thường nói  mỗi khi mình bị khổ, thí dụ ai nói chuyện gì làm cho mình bực mình thì mình nhớ rằng tại vì mình không khéo tu, đơn giản như vậy. Trời mưa cái nhà bị dột, mình ngồi trách ông trời làm mưa, không nên, mà tại cái nhà không khéo lợp. qúi vị đồng ý không, qúi vị ngồi trách ông trời làm mưa. Cũng vậy khi mình khổ là do mình không khéo tu. Cái nhà không khéo lợp mà cái nhà không khéo lợp thì mình lợp cái nhà lại, chúng tôi nghĩ có lý hơn là ngồi trách móc người khác.

4. - Và một điều sau cùng chúng tôi xin thưa với qúi Phật tử. 

Bà Dorathy Carnegie có chia sẻ một chuyện, hồi nhỏ chúng tôi có đọc cuốn sách tên là "Luyện tinh thần" do bà Dorathy Carnegie và cụ Hiến Lê dịch: "Nên nghĩ đến điều tệ hại nhất, khi sự việc xảy đến mình hãy nghĩ điều tệ hại nhất  ở mức độ nào, và khi mình đón nhận sự tệ hại nhất thì mình sẽ không có lo lắng buồn phiền nữa. 

Chúng tôi tin rằng một trong những bí quyết của cuộc sống Đức Phật Ngài dạy cho chúng ta đó là chuẩn bị tinh thần. Sự chuẩn bị tinh thần nào tốt nhất, ví dụ Đức Phật Ngài dạy chúng ta 5 pháp quán: 

Phật xưa rằng kiếp nhân sinh
Những điều khổ lụy chẳng dành riêng ai
Xuân xanh rồi cũng tàn phai
Thời hoa mộng tựa sương mai đầu cành

Không có ai trẻ mãi mà không già, nếu may mắn mình sống thì chắc  chắn tuổi già sẽ đến và khi tuổi già đến thì có nhiều thứ khác nó không có ý nghĩa nữa, những chuyện như là danh lợi không còn quan trọng nữa, rồi: 

Tấm thân tứ đại hợp thành
Ốm đau tật bệnh thường tình xưa nay

Lúc nãy chúng tôi thưa với qúi vị, bình thường còn khỏe mình còn hơn thua mình còn nói mình thế này thế kia nhưng mà lỡ mình khám phá mình bị ung thư hoặc bịnh này bịnh kia rồi thì tất cả cái khác trở thành vô nghĩa.

 Dù cho thọ mạng ngắn dài
Cổ kim nào kẻ thoát tay tử thần

Khi mình sắp chết rồi thì những thứ khác trở thành vô nghĩa, nhưng phải nói như vầy khi nói về cái chết.

Người thân ly biệt người thân
Trăm năm bao lượt khó ngăn lệ nhòa

Cái khổ sanh ly tử biệt nó lớn hơn bất cứ chuyện gì khác. Ở trong đời chúng tôi mỗi lần cha mất, mẹ mất và chúng tôi cũng tin rằng qúi Phật tử mỗi lần chia tay với những người thân của mình. Có nhiều khi mình chia tay đau nhứt là mình không biết làm cái gì. Chúng tôi cũng phải thú nhận với qúi Phật tử một điều rằng khi Ngài Hộ Giác còn sống chúng tôi không để ý cho đến bây giờ thỉnh thoảng chúng tôi lái xe ở đây lên đường 59 đi ngang bệnh viện Southwest Memorial Hospital tự nhiên chúng tôi nghĩ đến Ngài, chúng tôi vẫn nghe trong lòng có cái gì đó, không biết giờ này Ngài ở đâu, làm gì, Ngài đang có mặt ở trong đời mình bao nhiêu năm bây giờ tự nhiên Ngài tan biến không còn nữa. Nhưng trong đời sống mình phải chia cách với người thân mình, không thể sống gần người thân mình mãi mãi. Và Đức Phật cũng dạy quán là 

Mỗi người riêng nghiệp thiểu đa
Rừng mê bể khổ phải qua một mình

Cho dù mình có nắm níu nhau như thế nào, mình làm chuyện gì đi nữa, mình phải nhớ rằng chuẩn bị vali để đi một mình, hình ảnh tây balo không biết sao nhưng tất cả chúng ta dầu là có người thân có người này người kia mình phải đi một mình, phải chuẩn bị hành trang ra đi, chúng ta phải đi một mình bởi vì Đức Phật Ngài nói là:

Một khi thần chết hiện về
 Nào ai có thể chở che cho mình 
Thân nhân dẫu có chí tình, 
Ngậm ngùi chỉ biết đứng nhìn khóc thôi.

Người thân có thương cách mấy cũng chỉ đứng nhìn khóc thôi. Khi chúng ta  nhìn những điều đó thì tâm của chúng ta nhẹ nhàng.

Nếu mà chúng tôi nói điều này mà qúi Phật tử có thể chia sẻ được thì chúng tôi rất là vui, đó là, thực sự Phật Pháp là phương thuốc nhiệm màu nếu chúng ta áp dụng trong đời sống, phương thuốc đó cho chúng ta rất là nhiều ở trong cuộc sống này và điều quan trọng là mình có xử dụng được hay không, Đức Phật để lại cho chúng ta một di sản rất lớn, di sản vô giá. 

Chúng tôi nhắc một câu sau cùng ở trong Tăng Chi Bộ Kinh để kết thúc bài học hôm nay và dĩ nhiên câu kinh này nó có giá trị có thấm thía hay không là tùy mỗi người, có thể bây giờ chúng ta không thấy giá trị, Đức Phật Ngài dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh như vầy: 

"Này các Tỳ Kheo, sự mất mát này là sự mất mát nhỏ nhoi  đó là sự mất mát danh, sự mất mát lợi, sự mất mát người thân. Này các Tỳ Kheo, sự mất mát này là sự mất mát lớn lao đó là sự mất mát của trí tuệ"

Đức Phật Ngài dạy: Sự mất mát trí tuệ là sự mất mát lớn lao, và sự mất mát của danh của lợi của người thân đôi khi mình thấy nó  lớn chứ thật ra nó không lớn. Ở trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta để tâm chúng ta u mê mất đi trí tuệ thật sự điều đó còn nguy hơn những mất mát khác. Có thể chúng ta không tin lời Đức Phật dạy, tại vì mình nghĩ rằng cái chức vụ nó lớn, mình nghĩ quyền lợi nó lớn, mình nghĩ rằng người thân nó lớn. Nhưng Đức Phật Ngài nói rằng: Này Chư Tỳ Kheo, sự mất mát này là sự mất mát nhỏ nhoi, đó là mất mát danh, mất mát lợi, mất mát người thân so với sự mất mát của trí tuệ, này các Tỳ Kheo, sự mất mát của trí tuệ là sự mất mát to lớn"./. 

Thursday, August 20, 2015

Kinh Phật Tự Thuyết - Kinh Etaputtaka

(Xin lưu ý: Tất cả những bài chuyển biên chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng người chuyển biên xin đề rõ tên người chuyển biên) 

Kinh Phật Tự Thuyết - Kinh Etaputtaka

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 18-1-2015, Minh Hạnh chuyển biên và biên tập.

TT Giác Đẳng: Có những bài học trong kinh chúng ta cần  sự vận dụng kiến thức rát nhiều, cũng có những bài học mới nói qua chúng ta đã có thể hiểu. Nhưng giữa cái hiểu của chữ nghĩa và cái hiểu để thay đổi đời sống chúng ta mới xem chừng như gang tấc nhưng cách xa rất nhiều. 

Chúng ta hãy nhìn những người sống trong cuộc đời này kể cả bản thân của chính mình luôn luôn khao khát có được người thân, thân đến đỗi như núm ruột của mình thì mới chịu. Dĩ nhiên, chúng ta đi tìm nhiều quan hệ trong cuộc đời này, nào là bạn bè, nào là những người cộng sự. Chư Tăng thì tìm sự thân mến của Phật tử, Phật tử tìm sự thân mến của Chư Tăng. Chúng ta tạo nhiều quan hệ gắng bó thân thiết, có được như vậy mình cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa.

Hầu như tất cả chúng ta đều có quan niệm giống nhau, mình cu ki một mình, mình cô đơn một mình thì buồn thì bạc phước, và mình càng có đông người thân càng vui càng hạnh phúc. Chúng ta cũng biết rằng có nhiều người muốn có con nhỏ nhưng không phải là con của người khác mà là con của mình sanh ra năm đứa ba đứa. Những cặp vợ chồng son sống với nhau muốn có con để muốn có cái gì đó thật sự có ý nghĩa cuộc đời này.

Sự thật là như vậy. Sự thật chúng ta muốn tạo ra những núm ruột, chúng ta muốn tạo ra sợi giây thân ái trong quan niệm của chúng ta sợi giây đó là sợi giây càng bền chặt càng gắng liền bất khả phân thì chuyện đó tốt.

Trong kinh Đức Phật Ngài dạy chỉ có thiên tai, chiến tranh bệnh tật mới có thể phân chia được tình thương thiêng liêng giữa con và mẹ. Và trong nhiều đoạn kinh khác Đức Phật Ngài gợi nhắc cho chúng ta thấy sợi giây thương yêu đã cột kết chúng sanh trong cuộc đời này, nhưng nó không phải chỉ cột mà nó còn cho chúng ta một cảm nhận rằng có được những thứ đó làm cho cuộc sống ngọt ngào, làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên ấm áp trở nên hạnh phúc. Thật sự, chúng ta chỉ nhìn thấy một chiều chỉ thấy một khía cạnh. Như trong trường hợp một nam cư sĩ sống gần bên Đức Phật đi chùa thường và được nhiều dịp nghe pháp  khi đứa con yêu qúi độc nhất của mình bị mạng chung bị chết sự sầu muộn đã hiện lộ ra thấy rõ, thậm chí dù được gặp Đức Phật.

Chúng ta nói một cách rất bình tỉnh, nếu như trong đời gặp được Đức Phật ngồi trước Ngài đảnh lễ Ngài đó là điềm hoan hỉ vô hạn. Chúng ta nhìn một người thiện nam, một người có đức tin Tam Bảo giờ đây ngồi trước Đức Phật trong lòng vẫn xót xa, vẫn thương nhớ, vẫn đau khổ về sự mất mát đứa con thân yêu của mình. Điều này rất bình thường không cần phải chuyện xưa, chuyện hôm nay chúng ta cũng thấy như vậy . Chúng tôi đã có dịp gặp nhiều Phật tử những người rất có đạo tâm, rất có thiện chí, công quả ở chùa, phục vụ cộng đồng nhưng đối với cảnh sanh ly tử biệt của người thân trong gia đình thì hầu như tê tái mất hoàn toàn khả năng sống bình thường như câu chuyện trong bài kinh này.

Bài kinh này rất giản dị, qua bài kinh chúng ta có thể nhìn thấy ý nghĩa của Phật Pháp. Đức Phật Ngài không có huyền hoặc, Ngài không nói chuyện vượt ngoài cuộc sống bình thường. Thí dụ Ngài nói về sự Khổ hay Khổ Diệu Đế, ở trong những khổ Đức Phật Ngài đề cập đến đó là thương phải xa, điều tiếp theo là ghét phải gần. Chuyện thương phải xa là một trong 5 tâm niệm Đức Phật dạy chúng ta nên thường nghĩ đến:

- Ai sống ở đời cũng có lúc già không thể trẻ hoài.
- Ai sống ở đời cũng có lúc bệnh chứ không phải mạnh khỏe hoài. 
- Ai sống ở đời cũng có lúc chết chứ không phải sống hoài.
- Ai sống ở đời cũng phải chịu sự sanh ly tử biệt chia cách với người thân, không thể vui sum vầy hoài.
- Và ai sống ở đời cũng có nghiệp riêng của mình. 

Những sự thật này rất đơn giản, rất hiển nhiên, không cần phải nói một cách triết lý cầu kỳ để chúng ta hiểu nhưng đem vào lòng để thấm thía để sống với những điều đó từng ngày, nhiều lúc chúng ta từ chối.

Đời sống của chúng ta ít khi chịu xây đắp, tu tập, bồi đắp một khả năng để sống với trí tuệ, sống với ánh sáng Đức Phật soi sáng cho chúng ta. Chúng ta thường sống bằng thói quen nhiều đời gọi là bản năng đi truy cầu trong mong mỏi tạo thêm những quan hệ. Những quan hệ này không biết mang lại cho chúng ta có bao nhiêu niềm vui nhưng khổ thì vô cùng.

Ngày hôm qua chúng tôi lên Dallas có vài công việc Phật sự nơi đó. Chư Tăng ghé vào một nhà Phật tử, người này rất thương Chư Tăng, ở trong nhà có 3 người con, những đứa bé ngoan dể thương. Nhưng chúng tôi có thể nhìn thấy được sự cực khổ của hai vợ chồng để lo cho 3 đứa con, cả 2 vợ chồng đều có công việc làm để lo, rồi lo việc Phật sự, lo việc cộng đồng, rồi 3 đứa con, đôi lúc phải nhờ đến bà nội giúp đỡ. Mình không cần nói nhiều, mình nhìn thấy đó là gánh nặng rõ ràng. Và dĩ nhiên, không thể phủ nhận được đối với bình thường cuộc sống có con cái như vậy người đời cảm thấy rất vui rất hạnh phúc, nhưng chỉ đơn giản chuyện sáng lo điểm tâm cho mấy đứa con, lo điểm tâm cho Chư Tăng thấy cũng là sự vất vả mà hai vợ chồng gánh vác. Ở đây, chúng ta không có nói sự đúng sai phải quấy, không cần tríết lý, thì con mình nuôi, lớn lên nó có cuộc sống riêng của nó nhưng những năm dài vất vả âu lo chưa kể những việc khổ, chưa kể có những cái đau mà không có bút mực nào nói hết.

Chúng ta là vậy, thân phận của con người là vậy. Mình mong có rất nhiều và mình khổ rất nhiều về những thứ đó, đó là hệ lụy của luân hồi. Không có thì khổ vì không có, mà có cũng khổ vì có. Không phải chỉ qúi vị người Phật tử là khổ vậy đâu, chúng tôi đi tu thời bây giờ rất qúi trọng một điều người tu sĩ phải có chùa to chùa lớn, có Phật tử đông, phải có đàn tín thế này thế kia, thậm chí phải có địa vị này chức vụ kia. Nhưng để làm gì? Nói nghe thì rất bi đát, nhưng thật sự niềm hãnh diện nào đó mình không biết nhưng khổ thì nhiều. Không biết chúng ta có làm chuyện lớn gì nhưng chúng ta làm lớn chuyện thì nhiều. Cái khổ nhỏ không muốn lại muốn khổ lớn. Và đời sống của chúng ta thường là chúng ta tạo cho mình những gánh rất nặng mà đối với Đức Phật thì cái khổ đó là cái khổ hiển nhiên, rất là hiển nhiên của cuộc sống. Nếu chúng ta đọc kỹ lại thời Đức Phật còn tại thế bản thân của Đức Phật, bản thân của Chư Tăng những đệ tử Phật các Ngài sống rất đơn giản đi chỗ này sang chỗ khác, thủ đắc rất ít, có rất ít. Ngày hôm nay người ta có khuynh hướng ngược lại là chúng ta mong có nhiều, có lớn chuyện để làm gì? Để mà khổ, đơn giản như vậy

Những trói trăn những hệ lụy của kiếp nhân sinh nó vô cùng. Có thể chờ cho đến khi nào bản thân của chúng ta thay đổi cái nhìn của mình, đặc biệt lúc chúng ta tu tập, từng trạng thái từng cảm thọ sanh và diệt, hết diệt rồi sanh, sanh rồi diệt tiếp nối lẫn nhau như nước chảy qua cầu, như một giòng nước thiên thu bất tận, lúc đó chúng ta mới thấy rằng: thật ra chúng ta làm chủ rất ít. 

Nhìn vào hơi thở của mình, hơi thở thì có hơi thở ra hơi thở vô, nhìn vào những cảm thọ sanh khởi, không có rồi có, có rồi biến mất nằm ở trong giòng chảy liên tục thiên thu bất tận và ở đó chúng ta mới thấy rằng tất cả những sự chấp thủ của chúng ta thật sự chỉ là ảo giác.

Chúng tôi sinh ra ở miền Tây. Miền Tây là vùng của sông nước, và đặc biệt những con sông có rất nhiều lục bình rau mát. Có một lần chúng tôi xem một đoạn phim tài liệu về Cần Thơ, nhìn giòng sông Hậu Giang có bao nhiêu là lục bình trôi lửng lơ, cả một thời thơ ấu hiện về, coi đoạn phim đó chúng tôi nhớ cuộc sống của mình cũng hiện hữu giống như giòng sông, giòng thủy lưu cuộn chảy không biết bao nhiêu nước ra biển, và chúng ta thấy rất nhiều rau mát nhiều lục bình chảy qua chân cầu mỗi ngày. Một thế giới hiện tượng xảy ra như vậy, không biết cái gì là của ai, thuộc về ai, nhưng chắc chắn rằng mọi thứ đến và đi, mọi thứ hiện hữu theo dòng cuộn chảy, và chúng ta ngồi đó mà cười mà khóc với nó và chấp thủ với nó và khổ vì nó.

Chúng tôi nhớ hồi nhỏ lúc đi học ở Vạn Hạnh với TT Tuệ Siêu, lúc bấy giờ huynh đệ hai anh em ở chùa Từ Quang, Gò Vấp. Lần đó chúng tôi gặp Pháp Sư Thông Kham được mời đến nói chuyện ở chùa Từ Quang, chúng tôi nhớ Pháp Sư Thông Kham câu nói rất ý vị, đó là, mình có 5 uẩn đã khổ rồi, mình mong thêm 5 uẩn nữa, khổ nữa, mong 5 uẩn nữa, khổ nữa,và mình cứ mong thêm, mong thêm và mong thêm, mình nghĩ được chứ thật sự khổ chất chồng. Đó là cái nhìn về cuộc sống bình thường. 

Có hai điều trong cuộc sống chúng ta là sanh ly tử biệt, sống mà phải ngăn cách, chết lại bị mất nhau. Không ai tránh khỏi sự sanh ly tử biệt đó.

Đọc những câu chuyện hay suy ngẫm mọi việc, đặc biệt như những bài kinh Đức Phật ghi lại ở tại đây. Thật ra chúng ta thấy trong cái nhìn của bậc Giác Ngộ, không phải nhìn về triết lý hay có chuyện nhồi nặn về ngôn từ trong cuộc sống này, những gì Ngài nói là một hình ảnh rất rõ nét, rất thực tế về cuộc sống, có những cái đáng yêu đáng qúi cột chặt và chi phối chúng ta. Chư Thiên cũng vậy loài người cũng vậy bị nhiều phiền lụy khổ đau khi cái chết hoặc mình chết hoặc người thân của mình chết, Đức Phật Ngài không nhìn điều đó như một sự não lòng để than dài thở vắn, Ngài nhìn điều đó Ngài khuyên chúng ta tinh tấn tu tập, tại vì nếu chúng ta không khéo tu không khéo suy tư thì từ cái khổ nó khổ nhiều thêm, khổ bất tận. Và Ngài cũng dạy cái mồi của ác ma khó vượt qua, cái khổ đó thật sự khó vượt qua. 

Ngày hôm qua chúng tôi gặp một gia đình Phật tử có mấy người con, một người đã tốt nghiệp và trở thành vị đại tá trong quân đội Hoa Kỳ tạo niềm hãnh diện lớn cho gia đình. Ở Mỹ trong lễ gắng lon lên chức trong quân đội người gắng lon là người cha hay người mẹ hay người vợ. Thì bà mẹ đến gắng lon cho con trai mình lên đại tá rất là hãnh diện về chuyện này. Và cũng trong gia đình đó lại có một người con khác, người con này không được may mắn như người anh của mình, làm ăn thất bại rồi vợ buồn xin ly dị. Chúng tôi có thể đọc được cái vui của cặp vợ chồng đó, cái buồn của cặp vợ chồng đó, khi có một đứa con được thành đạt thì rất là vui và nói về đứa con mới bị khánh tận vợ bỏ thì cặp đó rất là buồn. Thì bây giờ mình mới thấy cuộc sống không nằm ở trong một cung bậc mà nó nằm trong nhiều cung bậc. Nhưng phải nhận rằng Đức Phật dạy cuộc sống vui ít khổ nhiều và nguy hiểm nhiều hơn, không biết cái vui mình được bao nhiêu mà khổ rất nhiều, nhiều, nhiều lắm. Chúng ta có trăm ngàn nỗi khổ của cuộc sống,cái khổ của sanh hữu, nhưng chúng ta thật sự rất khó, rất khó để thấy điều này, rất khó để buông xả, để cho cái gì đi. Và cảm nhận được điều đó chúng ta mới thấy niềm tin mạnh mẽ vào pháp hành.

Pháp hành ở đây là pháp tu Tứ Niệm Xứ. Nếu chúng ta có thể nhìn thân và tâm này, cảm nhận được cái này sanh rồi diệt, rồi tiếp nối sanh diệt và trong sanh diệt đó chúng ta có thể nhận được nó có bản chất riêng có tự tánh riêng, "không phải là ta", "không phải là của ta", "không phải tự ngã của ta", càng thấy rõ như vậy chúng ta càng thấy bình tâm hơn thấy an lạc hơn. Còn cái gì đó mình nghĩ là "ta" là "của ta", "tự ngã của ta" thì thật sự mình khổ nhiều hơn. Ở đây rất rõ, Đức Phật Ngài không dạy chúng ta phải suy tư bằng triết lý, mà đơn giản là mở mắt nhìn vào sự thật, chấp nhận sự thật, ở trong sự thật đó cho chúng ta biết về những sự việc có thể xảy ra trong cuộc sống này đến đi sanh diệt, và chúng ta thử nhận thức, thử tìm xem ở trong cái đó mình làm chủ được bao nhiêu, mình làm được gì hay mình chỉ khổ thôi.

Bài học ngày hôm nay cũng như  rất nhiều bài kinh khác đôi khi cho chúng ta có cảm tưởng như Đức Phật đưa ra một thứ triết lý sống gì đó, nhưng thật sự ở đây không có triết lý sống.

Ở đây bài kệ này có đủ Tứ Đế: Khổ, Nhân Sanh Khổ, Sự Diệt Khổ và Con Đường Đưa Đến Sự Diệt Khổ.
- Khổ ở đây là sự đau khổ héo mòn, bị thần chết nhiếp phục.
- Nhân Sanh Khổ ở đây là chấp vào những khả ái, khả hỉ, khả lạc.
- Sự Diệt Khổ là người đó đã đoạn tận gốc của khổ.
- Con Đường Dẫn Đến Sự Diệt Khổ là hành trình đoạn tận ái chấp, vượt qua mồi nhử của ác ma. 

Nhưng trong bài kệ này Đức Thế Tôn không nói một cách quy mô lớn lao Tứ Diệu Đế. Ngài chỉ từ một câu chuyện nói lên lời cảm khái. Ở trong lời cảm khái này Đức Phật Ngài không nói triết lý hay nhuộm thế gian một màu. Đơn giản Đức Phật Ngài chỉ rõ cho chúng ta thấy cuộc sống là như vậy, khổ đau là như vậy, nhân sanh khổ là như vậy, sự diệt khổ là như vậy, con đường dẫn đến sự diệt khổ là như vậy.

Thật ra với một người sống với Phật pháp thường lâu ngày chúng ta sẽ đồng ý với nhau là có nhiều sự khổ, rất nhiều sự khổ do cái nhìn sai, chấp sai, sự chấp thủ cái không đáng chấp thủ mà ra, đa phần là vậy. Tại vì chấp thủ thì chúng ta khổ. Nếu chúng ta có thể soi sáng chính mình bằng những sự thật hiển nhiên chấp nhận sự thật đó và ý thức rõ điều đó xảy ra ở trong cuộc sống thì chúng ta sẽ bớt khổ rất nhiều và lúc đó chúng ta mới hiểu câu là tại sao Phật Pháp chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc. 

Trước khi nói đến "ly khổ đắc lạc" phải có "chuyển mê khai ngộ". 

Tại vì sao vậy? 

Những cái mê, những cái chấp sai, hiểu quấy trong đời sống làm cho chúng ta khổ. Bây giờ trước khi đạt đến hạnh phúc, trước khi ly khổ đắc lạc chúng ta phải chuyển mê khai ngộ. Danh từ chúng ta thường gọi ở ngoài là có Giác Ngộ  thì mới giải thoát được. Có trải qua những chuyện như ông nam cư sĩ này rồi từ đó chúng ta thắp sáng ánh sáng trí tuệ của mình thì chúng ta mới hiểu thế nào là "Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền

Bởi vì sao vậy? 

Ai có thể thấy đúng như sự thật, chấp nhận sự thật và không cưỡng cầu với sự thật thì người đó thật sự an lạc.

 Đó cũng là một cái gì rất đẹp ở trong cuộc sống hàng ngày nếu chúng ta sống với một tâm tư thanh thản, với một tâm tư ít nặng lòng. Chúng ta có thể hình dung được một vị cư sĩ có đức tin mạnh mẽ, thường đi chùa nghe pháp, duyên lành nhiều như vậy thường đảnh lễ cúng dường Đức Phật và cơ hội tu tập nhiều như vậy, thường được nghe pháp từ chính Đức Phật giảng thế mà có những lần ngồi trước mặt Đức Phật trong lòng không nghĩ đến Phật, không nghĩ đến pháp, chỉ nghĩ đến đứa con yêu qúi đã mất rồi. Chúng ta không có gì để trách cứ hay chỉ trích người đó. Chúng ta cũng vậy thôi. Có chuyện gì phải trách cứ người đó. Nhưng đó là một sự thật, sự thật cho chúng ta thấy rằng đôi khi chúng ta hữu phước, hữu duyên, hữu hạnh tới đâu mà bị che mất những hữu duyên đó, mà chỉ nghĩ đến "tôi" đến "của tôi" và sầu khổ về chuyện đó. Ở trong cuộc đời này không phải là chuyện chúng tôi phê phán ai, chúng tôi không nói ai đúng ai sai, ai hay ai dở, chúng tôi nói sự thật nó là như vậy. Sự thật là một người trải qua cảnh sanh ly tử biệt, sự thật là một người chịu khổ nhiều về sanh ly tử biệt, và sự thật về một người bị khổ như vậy không còn nghĩ, không còn thấy, không còn biết nhiều về chuyện khác, chỉ nghĩ về chuyện khổ của mình thôi. Bao nhiêu lần trong chúng ta phải bận lòng quá nhiều với sự mất mát của người thân và trong sự mất mát đó chúng ta không thấy được sự thật, chúng ta tiếp tục bị dập vùi bị cuốn theo nỗi đau khổ.

Có một Phật tử hỏi một câu với Ngài Mahashi:

 "Tất cả pháp sanh ra do duyên, và mình biết danh sắc do thức, thức do hành, hành do vô minh. Như vậy trước vô minh là gì, cái gì tạo nên vô minh?". 

Ngài Mahashi nói rằng ở trong kinh dạy rất rõ là giáo lý Duyên Khởi là một vòng tròn. Như chúng ta biết vô minh duyên cho hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử sầu bi khổ ưu não, toàn bộ ngũ uẩn tập khởi. Nhưng Ngài nói có một đầu mối nữa đó là lão tử sầu bi khổ ưu não là thức ăn của vô minh, là duyên của vô minh.

Chúng ta nghiệm trong bài học này, đúng là sầu bi khổ ưu não. Chúng ta thường nghe nói sầu bi khổ ưu ai là duyên của vô minh. Tại sao duyên của vô minh? Một vị thiện nam có nhiều đức tin và thường nghe pháp bây giờ có đứa con chết nên khổ quá, ngồi trước mặt Đức Phật bậc Thiên Nhân Chi Đạo Sư, bậc Đại Giác, bậc Đại Bi, Đại Trí mà trong lòng mình khổ, cái khổ đó khiến cho hình ảnh của Đức Phật không giống như mọi ngày, khiến cho giáo pháp của Đức Phật không giống như mọi ngày, tâm chúng ta chỉ khổ thôi. Thì sầu bi khổ ưu ai là nhân của vô minh là vậy. Chúng ta càng vô minh thì càng khổ, mà càng khổ thì càng vô minh, đời sống có cái chuyện lạ lùng như vậy. Chúng ta thiếu chánh trí chúng ta khổ, mà càng khổ nó càng che mờ chúng ta càng thiếu chánh trí. Giống như mình lái xe đi lạc đường và càng lạc đường thì chúng ta càng bối rối và càng bối rối thì càng lạc đường. 

Tất cả chúng ta đang có mặt ở trong pháp hội lớp Phật Pháp ngày hôm nay, chúng tôi mong rằng tất cả chúng ta đang có những giờ phút rất thanh thản, chúng tôi hi vọng và chúng tôi cũng mong tất cả Chư Tăng và Phật tử ở trong giờ phút này không ai đang khổ vì cảnh sanh ly tử biệt. Nếu chúng tôi không biết thì qúi vị tha thứ cho. 

Nhưng trong lúc chúng ta chưa gặp cảnh sanh ly tử biệt chúng ta hãy đem vào lòng pháp quán Đức Phật dạy là sống hàng ngày thì nên tâm niệm mình sẽ phải chia cách người thân của mình. Đó là một điều hiển nhiên, không phải chờ thân nhân đi trên chuyến máy bay rồi máy bay bị rớt như chiếc máy bay Asia vừa rồi chúng ta mới khóc, không phải chờ đến khi có thiên tai, có chiến tranh, có này có kia chúng ta mới khóc. Và cái khổ là điều chắc chắn.

"Đi chung một chuyến tàu đời, 
Mỗi sân ga lại có người xuống lên, 
Có khi mình xuống đầu tiên, 
Có khi nửa chuyến ngại ngùng chia tay,
 Đâu ai đi hết đường dài, 
Từ ga đông đến ga đoài còn nhau". 

Cuộc sống chúng ta chênh lệch, đến với cuộc đời này, người đến trước kẻ đến sau, ra đi, kẻ đi trước người đi sau. Trong cái chênh lệch đó không đến một lần không đi một lần tạo nên những cảnh não lòng phải chia tay. Nhiều khi người ta nói "người đi không khổ người ở thì khổ", nhưng cũng có người nói "người đi cũng khổ mà người ở cũng khổ". Nói cách nào đi nữa thì cũng có nhiều cái khổ.

 Chúng ta đừng quên tâm niệm của Đức Phật dạy nên nhớ đã có sống thì phải có sự phân ly, chia lìa với người thân của mình không sớm thì muộn không chóng thì chầy, người ta không bỏ mình thì mình cũng bỏ người ta, mình không thể giữ mãi, mình không thể giữ hoài, không thể nắm níu hoài, đời sống là như vậy.

Thậm chí một người rất hiểu đạo khi đứa con mình chết đã nói một câu:

"Con tôi lúc đến không mời, ra đi cũng chẳng một lời tiễn đưa, khổ vui duyên nghiệp sẵn chừa, khóc than vô ích người đưa khổ sầu." 

"Lúc đến không mời lúc đi không tiễn" đó là sự thật của cuộc sống. Hiểu được điều đó chúng ta cũng cảm thấy nhẹ nhàng với nhau. Thí dụ như trong đời sống hàng ngày đôi khi có một số quí Phật tử  buồn tại sao cũng đi chùa, cũng hộ pháp, cũng làm việc lâu mà thấy giữa Phật tử với Chư Tăng không có quan hệ thân thiết mật thiết. Chúng tôi thưa thật tình mà nói  quan hệ bình thường giữa một nhà Sư hướng dẫn Phật Pháp và người Phật tử nghe pháp ít khổ hơn, nó nhẹ nhàng hơn. Tất cả những quan hệ gắng bó mật thiết nào chúng ta nhớ rằng nó có vị ngọt của nó nhưng nó cũng có cái nguy hiểm của nó, cái nguy hiểm của nó là khổ. Giống như một cặp vợ chồng son trong sự thương yêu mình nên có con để tạo thành một mái ấm gia đình hoàn chỉnh để rồi vợ chồng có sợi giây thiêng liêng ràng buột nhau v.v... và v.v... Chúng ta chỉ nghĩ một chiều thôi và chúng ta không thấy được cái khổ mà nó mang lại. 

Bà Viskha một đệ tử của Đức Phật một lần đến chùa gặp Đức Phật với khuôn mặt rất khổ sầu. Đức Phật hỏi tại sao, bà thưa:

"Bạch Đức Thế Tôn, con có một người cháu rất thân yêu vừa mới bạo bệnh qua đời".

Đức Phật chỉ hỏi một câu là "Này Viskha, con có muốn nhiều con nhiều cháu không?"

Bà là vị Thánh Tu Đà Hườn, bà bạch với Đức Thế Tôn: "Con rất thương con cháu, thậm chí có con cháu nhiều như dân trong thành Xá Vệ con cũng cảm thấy hoan hỉ". 

Đức Phật nhắc: "Cũng may Visakha chỉ có một số con cháu thôi, nếu con cháu đông bằng thành Xá vệ thì ngày nào cũng phải khóc, vì trong thành Xá vệ ngày nào cũng có người chết

Có người ở trong thành phố Houston chúng tôi biết họ sống cả đời chuộng về xã giao hay đi giao thiệp đó đây, ai mời cũng đi, ai làm thân thì cũng gắng bó. Có lúc người đó than với chúng tôi rằng "khổ quá, quen nhiều tuần nào cũng đi đám cưới, tuần nào người ta cũng mời đi sinh nhật, mời riết rồi khổ quá, mà cho mỗi chỗ 50, 30 thấy cũng là gánh nặng rồi". Tự nhiên nó là như vậy thôi. Đời sống chúng ta không phải mình có nhiều là hạnh phúc. Nhiều khi mình mong có chức vụ này, có địa vị kia, có này có khác nhưng mình thử hỏi xem có cái đó nó làm chúng ta vui bao nhiêu, hãnh diện bao nhiêu, mà cái nhọc nhằng cái khổ nó có bao nhiêu. 

Thật ra Đức Phật Ngài không dạy cầu kỳ khó hiểu, Ngài dạy chúng ta những điều rất thực rất hiển nhiên của cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta nghe những điều đó bằng con mắt trí tuệ hay không, chúng ta có thể suy tư những điều đó để có thể thấy hay không.

Có một lần chúng tôi đọc một bài viết ghi lại lời giảng dạy của Ngài Ajahn Chah, Ngài thuyết pháp Ngài có một cách nói vui khó ai bắt chước được giống Ngài. Ngài diễn tả về con gà, một người nhà nông nuôi con gà, cho con gà ăn, rồi con gà quấn quít tung tăng chung quanh người nhà nông đó. Đến một ngày người nhà nông đó cột chân con gà đem ra chợ bán. Rồi có người mua đem con gà về cắt cổ làm thịt. Nhưng khi con gà sống nó không hiểu được thân phận của nó, nó vẫn tung tăng, nó không biết gì thân phận của nó là người ta nuôi nó không phải là vì thương, mà người ta nuôi nó để cho nó lớn rồi bán đi và người mua về để làm thịt. Nhưng, Ngài dạy rằng: "Thật ra đó là thân phận của tất cả chúng ta". Đối với thần chết, thân phận của chúng ta giống như con gà ăn thóc thì bươi và hí hửng tung tăng. Nhưng chúng ta không biết đến cái chết. Chúng ta không biết ý nghĩa gì về cuộc sống, chúng ta rất là hí hửng và hân hoan khi có được cái này có được cái kia, chúng ta không thấy được cái khổ của nó.

Bởi vậy, con đường Đức Phật dạy: chúng ta đó là hãy tập im lặng nhìn vào thân và nhìn vào tâm và nhìn vào hơi thở, hơi thở vào hơi thở ra, nhìn vào cảm thọ của mình, cảm thọ đến cảm thọ đi, nhìn vào tất cả 5 uẩn dù là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nó có biến thiên nó có thay đổi. 

Năm uẩn là thường hay là vô thường, biết 5 uẩn là vô thường. 

Cái gì vô thường là khổ hay vui, biết là khổ.

Cái gì vô thường là khổ với sự sanh diệt theo lẽ thường thì có nên cho điều đó là "ta" hay là "của ta", "tự ngã của ta" chăng. Không nên.

Cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi, và nên nhận thức bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vậy nó không phải là "ta" không phải là "của ta" hay "tự ngã" của ta

Bậc Thanh Văn được nghe và thấy như thế rồi thì sanh tâm yểm ly đối với các pháp, nơi nhàm chán vị ấy ly tham, do ly tham tâm được giải thoát, khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát, vị ấy biết rõ sanh đã tận phạm hạnh đã thành những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa .

Một đoạn kinh trong kinh Vô Ngã Tướng. Bài kinh đó chúng tôi thường tụng trong các đám tang. Tụng thì có tụng thôi nhưng có rất nhiều người trong tang quyến vừa tụng vừa khóc. Khóc vì thương cha, thương mẹ, thương con, thương anh chị em, thương người thân ra đi. Tụng là bởi vì lời ghi trong kinh chúng ta vừa tụng kinh về một sự thật và chúng ta cũng vừa khổ về một điều là không chấp nhận sự thật. Lúc nào đó qúi Phật tử nhìn thấy một người đang khóc, nước mắt đang chảy, giọng đọc nghẹn ngào mà tụng kinh Vô Ngã Tướng thì qúi vị nghe cuộc sống là cái gì rất là khổ. Mình không biết nói sao, tâm đó, trí đó, nhận thức đó, sống giữa  lằn vĩ tuyến bên này và bên kia, một bên thì sầu muộn và một bên là ánh sáng của minh triết. Ánh sáng của minh triết có khả năng soi rọi đến đâu chúng ta không biết nhưng chúng ta biết chúng ta từng đọc những bài kinh như vậy, và đọc trong nước mắt . 

Đức Phật không dạy chúng ta sống huyền hoặc xa xôi, Đức Phật Ngài dạy chúng ta nên sống với sự thật ở trên thân tâm của mình, sanh là như vậy, diệt là như vậy. Và nếu chúng ta có đủ công tâm, đủ tỉnh táo, đủ khách quan để nhìn vào sự thật thì chúng ta bớt khổ, đơn giản vậy thôi, và chúng ta càng chấp sai càng hiểu sai thì chúng ta càng khổ, chỉ đơn giản là vậy. 

Trở lại câu chuyện hôm nay, có thể là bài kinh rất ngắn, và có thể là một ý nghĩa tất cả chúng ta đều nói "chuyện đó dễ quá ai cũng hiểu rồi", và cũng có thể chúng ta nói sự thật đó rất bình thường có chuyện gì mà Đức Phật Ngài phải nói lên một câu Vô Vấn Tự Thuyết như vậy. Nhưng kỳ thực đó là một ý nghĩa lớn, rất lớn, một điều cần được thâm nhập được đem vào lòng, đó là sự thực hiển nhiên và ở đó cũng cho chúng ta thấy cái oái oăm của cuộc sống là nó rõ như vậy mà chúng ta không thấy, nó cần thiết sự nhận thức như vậy mà chúng ta thường từ chối không chịu nhìn nhận, và chúng ta bị vấp ngã, bị vướng vấp, bị khổ đau nhiều như vậy chúng ta vẫn chưa tỉnh. 

Bài kinh này không biết chúng ta có đọc có tụng thành một trang kinh mỗi ngày để chúng ta có hiểu không. Chúng ta nhớ Đức Phật dạy chúng ta nên thường quán 5 pháp, 5 pháp này không có chuyện gì khó hiểu hết, đơn giản thôi:

- không ai trẻ mãi không già, 

- không ai khỏe mạnh hoài không bệnh,

- không ai sống hoài không chết,

- không ai không chịu cảnh khổ sanh ly tử biệt chia cách với người thân của mình

- và không ai không có nghiệp riêng của mình.

Kinh NĂM PHÁP QUÁN

Phật xưa rằng kiếp nhân sinh
Lắm điều khổ lụy chẳng dành riêng ai
Xuân xanh rồi cũng tàn phai
Thời hoa mộng tựa sương mai đầu cành
Tấm thân tứ đại hiệp thành
Ốm đau tật bệnh thường tình xưa nay
Dù cho thọ mạng ngắn dài
Cổ kim nào kẻ thoát tay tử thần
Người thân ly biệt người thân
Trăm năm bao lượt khó ngăn lệ nhòa
Mỗi người riêng nghiệp thiểu đa
Rừng mê bể khổ phải qua một mình
Tử sinh nối tiếp tử sinh
Trầm luân khởi tự vô minh cội nguồn
Trí nhân hiểu lẽ vô thường
Tinh cần tu tập thẳng đường vô sanh. 

 Những pháp quán đó nhiều khi chúng ta không muốn quán, chúng ta không muốn nghĩ, thậm chí chúng ta không muốn nhắc tới, nhưng rồi sự thật nó là như vậy, nếu chúng ta thường thấy, nếu chúng ta thường tâm niệm, thường suy ngẫm thì khi chúng ta đối diện với cái chết chúng ta đỡ khổ hơn, khi chúng ta phải trải qua chúng ta đỡ khổ hơn. 

Và đôi khi chúng ta phải nhắc với chính mình rằng đời sống mình xa đà, đời sống mình khổ là tại vì mình quên lời Đức Phật dạy, tại vì mình không chấp nhận sự thật, và tại vì mình không chịu nhìn vào sự thật. Nếu mình nhìn vào bằng con mắt trí tuệ, bằng sự thanh thản và bằng sự khách quan thì chúng ta thấy Đức Phật đúng là bậc Giác Ngộ, lời dạy của Ngài đúng là Phương Lương Dược và cái trí tuệ mới là sự nghiệp to lớn. 

Hiểu được điều này chúng ta mới hiểu tại sao Đức Phật dạy:

"Này Chư Tỳ Kheo, cái mất mát này là nhỏ bé, là mất mát của danh, mất mát của lợi, mất mát của người thân. Cái mất mát lớn đó là mất mát của trí tuệ".

Không phải lời dạy của Đức Phật chúng ta dễ thấm thía. Chỉ những khi chúng ta tâm niệm được điều Đức Phật dạy ở tại đây, " đúng là sự mất mát của trí tuệ là sự mất mát lớn", sự mất mát đó làm chúng ta khổ rất nhiều, mình tưởng sự mất mát khác là lớn chứ lớn cái mất mát của trí tuệ mới là sự mất mát lớn. 

Đó là vài điều chúng tôi muốn chia sẻ với qúi Phật tử./.

Monday, August 3, 2015

Kinh Phật Tự Thuyết - Phẩm Bồ Đề - Kinh Bahiya

Kinh Phật Tự Thuyết - Phẩm Bồ Đề - Kinh Bahiya 

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 11-1-2015, Minh Hạnh chuyển biên và biên tập

(Xin lưu ý: Tất cả những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng người chuyển biên xin đề rõ tên người chuyển biên) 

TT Giác Đẳng: Bài học hôm này Kinh Phật Tự Thuyết - Kinh Bahiya hơi dài, chúng tôi xin được chia bài kinh này thành ba phần: 

Phần thứ nhất, kể câu chuyện liên quan đến Bahiya.

Phần thứ hai, một số chú giải liên quan đến Ngài Bahiya.

Phần thứ ba, ý nghĩa của một lời dạy xúc tích cô đọng nhưng đặc biệt rất quan trọng với tất cả những người hành thiền 

1.Phần thứ nhất, kể lại câu chuyện liên quan đến Bahiya.

Câu chuyện kể Bahiya là một người thương buôn đã đi bằng con đường hàng hải tức là đường biển đến nhiều nơi, lần cuối cùng Bahiya đi sang xứ Suranapong là vùng đất Thái Lan bây giờ, vì Thái Lan có tỉnh Phuket giáp với Ấn Độ Dương, thời đó trong sự giao thương người Ấn Độ có đến Surànapong để buôn bán. Trong chuyến đi trở về thuyền bị bão và bị chìm, Bahiya trôi dạt vào trong cảng Suppàraka miền duyên hải của xứ Suranapong. Cũng do phúc duyên nên không chết, khi trôi vào trong bờ thì không còn y phục bất cứ thứ gì để che thân Bahiya phải phấn đấu sinh tồn bằng cách tìm những vỏ cây bện lại thành y phục.

Sau nhiều ngày ăn trái cây rừng và dùng vỏ cây để che thân Bahiya đi đến một làng. Bởi vì Bahiya là một người có tư cách trí thức và là một người tương đối từng trải nên khi gặp những người dân trong làng với hình ảnh của một người có uy nghiêm riêng đồng thời dùng vỏ cây để làm y phục thì tự nhiên được sự tín ngưỡng của người trong làng. Người Ấn Độ họ rất sùng bái những nhà tu hành, những vị đạo sĩ sống trong rừng và có đặc hạnh, trong trường hợp này Bahiya dùng vỏ cây để làm y phục thì họ phát tâm kính ngưỡng.

 Nhân sự tùng sự. Ban đầu Bahiya cảm nhận người trong làng đã sùng bái mình quá đáng, nhưng dần dà cũng tùy thuận trong sự giao tiếp. Bahiya bỗng nhiên nhận thấy mình giống như vị đạo sĩ và thật sự cũng mong mình là vị đạo sĩ. Rồi dần dà trong phong cách của vị này đã hướng dẫn một số người trong làng hướng về đời sống thanh tịnh. Những người trong làng kính trọng Bahiya giống như một ông thánh sống. Ở trong đời chúng ta có chuyện như vầy, đôi khi mình không nghĩ mình là Thánh, đôi khi mình không nghĩ mình là Tiên là Phật nhưng người khác họ tôn sùng mình quá lâu ngày mình có cảm tưởng mình là vị Thánh thật sự. Trong tiếng Phạn có chữ Arahan là Alahán chúng ta dịch là bậc Ứng Cúng tức bậc đáng cúng dường để chỉ cho bậc thanh tịnh. Bahiya thấy sau chuyến đi thập tử nhất sinh bây giờ sống tại đây ở trong am tranh giản dị trong lòng cũng thanh thản không muốn gì hết cũng không màn những gì cho đời sống hiện tại và thập chí nghĩ có lẽ mình đã thật sự là một vị Thánh.

Trong kinh ghi có một vị Chư Thiên vốn bà con đời trước thấy Bahiya như vậy sanh tâm trắc ẩn vào buổi tối báo cho Bahiya biết thật ra Bahiya không phải là vị Alahan và cũng không biết pháp để trở thành vị Alahan, cũng không hành trình trên đạo lộ của vị Alahan, và ở hướng tây có một thành phố tên là Sàvatthi ở đó có bậc Đại Giác ra đời, Ngài là Phật, là Đức Thế Tôn, Ngài đúng là bậc Alahan, nếu Bahiya tìm đến Ngài sẽ dạy cho con đường để trở thành vị Alahan.

Điều này cũng là duyện đặc biệt, đôi khi người Phật tử hồi hướng đến Chư Thiên để có khi Chư Thiên nhắc nhở mách bảo (chúng ta gọi là cảm ứng) mình được nhiều cái lợi. Đặc biệt ở trong này Chư Thiên và Bahiya vốn có thiện duyên từ kiếp trước là bà con quyến thuộc

Bahiya không phải chỉ là người có túc duyên với Chư Thiên mà lại là một người phước hạnh đã chín mùi để trở thành vị giác ngộ. Khi nghe nói Đức Phật bậc Giác Ngộ tại thành Xá Vệ Bahiya đã rời làng một nơi tương đối nhiều người kính ngưỡng mình để đi về thành Xá Vệ trong tâm trạng rất nôn nóng gặp Đức Phật, gặp bậc Giác Ngộ, rất thiết tha học đạo để tìm ra con đường trở thành bậc Alahan.

Bahiya đặt chân đến Xá Vệ không khó khăn để tìm ra ngôi chùa Kỳ Viên một nơi được xem nổi tiếng nhất trong thành Xá Vệ ngoài hoàng cung. Bahiya khi đến gần chùa Kỳ Viên thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, liền khởi lên tịnh tin. Bàhiya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

-" Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài."

Bahiya đến cầu đạo một cách rất nôn nóng, Đức Thế Tôn Ngài đã dùng cách từ chối để tâm của Bahiya trung hoà lại một chút, sau đó Ngài đã dạy đạo lý những lời dạy này rất cô đọng nhưng chứa đựng những ý nghĩa rất quan trọng.

Trong kinh nói, sau khi Bahiya nghe Đức Thế Tôn giảng đã thành tựu quả vị Alahan ngay lập tức. Sau đó Đức Thế Tôn tiếp tục đi khất thực. Bahiya sau khi thành tựu quả vị nghĩ đến việc đi tìm y bát để trở thành vị xuất gia. Nhưng không lâu sau đó bị một con bò húc chết. Khi Đức Thế Tôn đi khất thực về nhìn thấy thi thể của Bahiya nằm bên vệ đường Ngài đã dạy Chư Tỳ Kheo "đó là vị đồng phạm hạnh hãy hóa táng và xây tháp thờ". Đức Thế Tôn đã gọi Bahiya là một trong những đệ tử đệ nhất tốc trí tức lãnh hội rất nhanh, chỉ nghe một câu rất ngắn và đã trở thành một vị viên mãn giải thoát. Và Đức Thế Tôn cũng đọc lên bài kệ

Chỗ nào nước và đất, 

Lửa, gió không chấp trước,

Tại đây sao không chói, 

Mặt trời không chiếu sáng, 

Tại đây trăng không chiếu, 

Tại đây u ám không, 

Khi ẩn sĩ Phạm chí, 

Tự mình với trí tuệ, 

Thể nhập vào Chánh pháp, 

Vị ấy được giải thoát Khỏi sắc và vô sắc,

Khỏi an lạc, đau khổ.

2. Phần thứ hai, một số những chú giải liên quan đến Ngài Bahiya

Trường hợp của Bahiya là một trường hợp ở trong chú giải đề cập đến nhiều. Một là Bahiya đã thành tựu đạo quả trong thời gian rất ngắn bởi vì trong thời Đức Thế Tôn Padumuttara vị này đã từng làm một phước hạnh lớn và phát nguyện sau này gặp được chánh pháp sẽ chứng đắc Thánh quả một cách nhanh chóng. Do vậy trong đời này sau khi Balamật hạnh đã viên mãn Bahiya gặp Đức Thế Tôn Ngài chỉ nói một câu thì thành tựu quả vị giải thoát rất nhanh.. 

Nhưng Bahiya có hai bất thiện nghiệp: 

1. Bahiya từng là vị Tỳ Kheo hành trì giáo pháp lâu năm ở các đời Chư Phật quá khứ, trong suốt thời gian tu tập chưa bao giờ cúng dường bố thí y và bát đến các vị xuất gia. Ở đây, chúng tôi cũng phải nhìn nhận khi vào chùa tu có những vị tâm không hiểu sao chỉ nhận sự cúng dường chứ không bao giờ bố thí, không bao giờ tạo phước, chúng tôi có gặp nhiều vị như vậy, và đặc biệt mình đi xuất gia có tứ vật dụng do Phật tử cúng y bát lẽ ra mình nên trợ duyên giúp cho người khác tu tập. Thì Bahiya không bao giờ giúp cho người khác tu tập do vậy khi gặp Đức Thế Tôn mặc dù đã giác ngộ đạo quả nhưng không thể trở thành vị tỳ kheo có y có bát vì thiếu phước bố thí trong quá khứ. Các Phật tử ở các quốc gia Phật giáo phần đông nếu có điều kiện qúi Phật tử thường hoan hỉ tổ chức lễ Dâng Y Kathina để nói lên sự qúi kính đối với hình tướng xuất gia để tạo phước duyên cho đời sau đi xuất gia có nhiều thuận duyên gặp Đức Phật để trở thành vị bhikkhu.

2. Một bất thiện nghiệp khác trong quá khứ khiến cho Bahiya bị bò húc là trong quá khứ Bahiya dùng tên bắn vị Phật Độc Giác do tâm cuồng nộ nên đời này bị quả nghiệp như vậy. 

Câu chuyện về Ngài Bahiya nói lên một điểm ở trong đời sống chúng ta là một tổng hợp của những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp của quá khứ. Ở đây không có chuyện gì là rủi là may mà nó là quả của nghiệp. Và Ngài Bahiya đã thành tựu đạo quả với thắng trí rất nhanh gọi là tốc trí citta-Javana, nhưng ngược lại thì không có được thuận duyên như những vị khác những đệ tử xuất gia sống bên chân Đức Phật. Thì cuộc đời của chúng ta, mình không thể lấy một việc mà nói người đó có phước, mình không thể lấy một việc mà nói người đó vô phước, có khi có phước việc này lại không có phước về mặt khác. Về điểm đó cũng là một việc khẳng định cái nhìn của chúng ta đôi khi không có chính xác. 

3. Phần thứ ba là ý nghĩa của một lời dạy xúc tích cô đọng nhưng đặc biệt rất quan trọng với tất cả những người hành thiền 

Chúng ta đi vào bài giảng của Đức Phật cho Bahiya, sau đó là bài kệ do chính Đức Phật Ngài nói lên mà từ cảm khái nhìn vào sự việc. Chúng ta đọc kỹ đoạn này:

- "Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau". 

Bài kệ rất ngắn nhưng hàm xúc và cô đọng nhiều ý nghĩa rất quan trọng. Trước khi chúng ta đi vào từng phần của lời dạy này chúng ta nên nhìn 4 điểm ở trong đời sống.

1. Điểm đầu tiên, trong cái nhìn của khoa học, phương pháp nghiên cứu khoa học có một phương thức là loại bỏ những cái không phải để tìm ra cái thật sự là phải. Thí dụ chúng tôi có một câu hỏi muốn tìm giải đáp và ở ngoài kia có một chục câu trả lời, ở trong chục câu trả lời đó mình biết có câu trả lời đúng thì mình có 2 cách: một là mình tìm những câu trả lời sai và loại bỏ những câu đó, cách thứ nhì là đọc những câu sai và sau cùng chọn câu đúng trong số những câu sai. 

Ở trong lớp chúng ta thỉnh thoảng có bài thi trắc nghiệm, chúng ta có 1 câu hỏi và có 4 câu trả lời thì mình biết câu đúng nằm ở trong 4 câu đó . Nhưng cũng có một cách khác, thay vì tìm câu đúng thì tìm câu sai, câu A là sai không lấy, câu B là sai không lấy, câu C là sai không lấy thì như vậy câu đúng phải là câu D. Thì ở trong 4 câu có một câu đúng. Điều này người tây Phương gọi là approach là phương pháp tiếp cận, phương pháp nhận diện, thay vì nhìn cái gì cũng đúng thì chúng ta nhìn cái không đúng. Phương thức này rất có lợi cho chúng ta. Và chúng ta không nhìn cuộc sống bằng định kiến, thay vì nó phải thế này, nó phải thế kia, thì mình nói là cái này không phải, cái kia không phải.

2. Điểm thứ hai: Ở trong cuộc sống chúng ta thường vướng vấp bởi 3 định kiến là ngã, ngã sở và mạn tùy miên.
Ngã là đây là tôi, thí dụ mình là người lục tỉnh,  là người miền Tây, có ai chê người miền tây quê mùa, đó là đụng tới tôi, vì tôi là người miền tây, miền tây là tôi, đó gọi là "ngã". 

- Ngã Sở. Mình làm trụ trì trong chùa mình nghĩ cái ghế đó phải là cái ghế của mình ngồi, người khác ngồi vào mình giận gọi là "ngã sở" hay là "của tôi", nó là "của tôi", tuy nó không phải là "tôi" nhưng nó là "của tôi", ai đụng đến "cái của tôi" thì tôi cũng nổi giận được. 

- Mạn tùy miên. Mạn tùy miên tức là "tự ngã của tôi". Tự ngã của tôi mang tánh cách so đo, so sánh giữa mình và người khác. Ví dụ như người ta là ca sĩ mình là cũng là ca sĩ nhưng có ai trước mặt mình khen ca sĩ khác thì tự nhiên bản thân mình là ca sĩ mình cũng thấy nóng mặt, người ta là Pháp Sư mình cũng là Pháp Sư nhưng người ta gặp mình người ta không khen thuyết pháp hay mà người ta khen người khác thuyết pháp hay mình cũng nóng mặt, cái đó gọi là "mạn tùy miên". 

Ngã, ngã sở, mạn tùy miên - đây là tôi, đây là của tôi  và đây là tự ngã của tôi  chính quan niệm này chúng ta tạo ra rất nhiều vấn đề  của cuộc sống, rất nhiều  đau khổ của cuộc sống. 

Tại vì sao vậy?

 Trong một bài kinh rất quan trọng  là kinh Căn Bản Pháp Môn, bài kinh đầu tiên của Trung Bộ Kinh  có đề cập đến cái nhìn của phàm phu  là khi nhìn vào thế giới này từ địa đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại, từ các cõi, các hạng người, nói chung là cả thế giới này thì Đức Phật dạy rằng kẻ vô văn phàm phu luôn luôn lấy tự ngã đối chiếu với thế giới này, tự ngã đối chiếu với tứ đại, nhìn cái gì đi nữa, dù là xa, dù là gần, dù thế này thế kia thì đều đối chiếu với tự ngã. 

Một bi kịch vừa xảy ra ở nước Pháp, những người khủng bố tấn công  tòa soạn một tờ báo tại vì những người Hồi giáo khủng bố tin rằng tờ báo đăng hình hoạt kê biếm họa châm chích về Hồi giáo thì họ phải trừng trị. Đó là vấn đề ngã, ngã sở, mạn tùy miên - đây là tôi, đây là của tôi, đây là tự ngã của tôi và nó tạo nên bi kịch.

 Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày nếu từ sáng cho tới chiều mình thức dậy mình luôn luôn có những quan niệm, có những cái nhìn, có những nhận thức mà thật ra chúng ta vô tình không biết, cái nào mình cũng thấy rằng đó không phải là "tôi" thì cũng "của tôi", không "của tôi" thì cũng "tự ngã của tôi". Mình nghĩ rằng quan niệm đó mang lại cho mình niềm vui, thật ra nó tạo cho mình rất nhiều vấn đề.

Chúng tôi lấy ví dụ, chúng tôi đang ở chùa Phật Quang, ngôi chùa mới được  tạo lập bởi qúi Phật tử thập phương đóng góp trong vòng mấy tháng để tạo ngôi chùa. Có Phật tử đến nói rằng "Thật sự Thầy rất giỏi, chỉ trong thời gian ngắn Thầy có thể mua được ngôi chùa thì thật sự đó là điều phải nói là Thầy rất có tài ". Rồi có Phật tử khác đến nói rằng: "TT tạo lập ngôi chùa mà ngôi chùa phải có tầm cỡ chứ ngôi chùa sao nhỏ quá, ngôi chùa này so với những ngôi chùa khác không đủ tiện nghi gì hết". Thì thưa qúi vị, cũng ngôi chùa đó có lời khen, có lời chê, có người nói thế này, có người nói thế kia. 

Nhưng thật ra mình phải nhìn thấy một điều là mình làm một ngôi chùa nói giỏi thì không phải giỏi tại vì đó là sự phát tâm của qúi Phật tử xa gần. Nói theo ngôn ngữ của Phật Pháp là do duyên làm nên, có nhiều khi không gặp duyên lành thì mình cũng không làm được. Còn nói làm lớn làm nhỏ thì thật ra làm lớn nhiều tiền quá không có tiền. Quan niệm về lớn về nhỏ, nếu tỉnh táo một chút xíu ở trong đời sống chúng ta thấy mình vui ở trong lời khen và mình buồn ở trong lời chê thì nó chỉ là một sự nông nỗi, chỉ là sự chấp sai. 

3. Điểm thứ ba: Trong ngôn ngữ rất chuyên môn Phật Pháp là mình lấy tự ngã đối chiếu với thế giới này, khi mình lấy tự ngã đối chiếu với thế giới này mình tạo ra rất nhiều vấn đề cho cuộc sống. 

Cũng khuôn mặt đó, cũng mái tóc đó có người khen đẹp có người nói không đẹp. Cũng thành phố đó có nhiều người thiết tha có nhiều người thấy thành phố đó mơ mộng. Qúi vị đừng nói thành phố Paris là kinh đô ánh sáng, nhiều người thích. Một lần chúng tôi hỏi một vị Thầy đến thăm Paris: "Thầy nghĩ thế nào về thành phố Paris?" Thì vị Thầy nói "Thành phố gì phân chó khắp nơi" Tại vì người Pháp thường hay dẫn chó dạo ngoài đường họ để cho chó đại tiện bừa bãi, chuyện đó chúng tôi không phủ nhận, thật ra thành phố để chó đại tiện bừa bãi như vậy cũng là sự không nên. Nhưng đó không phải tất cả là Paris, Paris có như vậy nhưng không phải là tất cả. Cũng có những người chúng tôi hỏi Paris thế nào, thì họ nói Paris gì mà xuống dưới metro (xe điện ngầm) rất là khai, là vì người Pháp làm đường hầm không có tiện nghi như người Mỹ, người Mỹ thật sự khắp nơi đều có nhà vệ sinh, còn người Pháp thật sự đi tìm nhà vệ sinh rất cực do vậy có nhiều khi mình xuống đường hầm mình nghe có mùi khai là tại vì có nhiều người  nếu được tiện nghi thì họ không tiểu tiện bừa bãi như vậy. Nhưng mùi khai dưới metro không phải là tất cả là Paris. Nói Paris là kinh thành của ánh sáng của hoa lệ, cũng đúng, đại lộ Élysées hay khu La Fayette có bao nhiêu tiệm, có bao nhiêu boutique (cửa hàng nhỏ bán quần áo thời trang, đồ trang sức, hoặc những thứ đắt tiền), có bao nhiêu khu thương mại rất giàu, có những hotel 5 sao v.v.. và v.v.. Thì mình nói sao về Paris?  Paris là tổng hợp của tất cả những thứ đó.

Cuộc sống là như vậy,  giống như cuộc đời của Ngài Bahiya, đó là sự tổng hợp của những thiện và những bất thiện, của những cái thuận, những cái chướng, những cái đẹp và những cái không đẹp. Chúng ta chỉ muốn cuộc đời là thế này, cuộc đời là thế kia, chúng ta phán một câu vô tội vạ. Thật ra nó không chỉ là sự nông nỗi trong sự nhận thức mà nó cũng là sự phiến diện của chính mình. Chính sự chấp thủ này làm chúng ta khổ, chấp thủ vào khen, chê, vui, khổ, đặng, thất, vinh, nhục làm chúng ta khổ là vì chúng ta không thấy được.

 Chúng ta nên hiểu chấp thủ về ngã, ngã sở, mạn tùy miên  là một cái gì ăn sâu dấu kín trong lòng chúng ta và nó luôn luôn là vậy, nó là một tiền khiên tật, thường cận y duyên, là một cái gì đó, một cái thói quen lâu đời nhiều kiếp chứ không phải chỉ có đời này, chúng ta luôn luôn đem tự ngã để đối chiếu với thế giới này. Đức Thế Tôn là một vị Giác Ngộ rất hi hữu, Ngài đã dạy về con đường làm sao để gỡ bỏ điều đó, thay vì đi tìm cái ngã, thay vì đi tìm ngã sở, thay vì đi tìm cái gì đánh mất cái ngã của mình thì Đức Thế Tôn khuyên hãy nhìn thế nào mà nó không phải là ngã. 

Ở trước sân chùa có một bụi hồng rất đẹp, chúng tôi chưa bao giờ thấy hoa hồng đẹp như vậy, bên ngoài màu đỏ bên trong màu trắng,  nó có rất nhiều cánh hoa màu từ đỏ nhạt dần cho đến màu trắng, đóa hoa rất lớn bằng bàn tay chúng tôi  xòe ra. Có một Phật tử hôm qua đến gặp chúng tôi nói ở sân chùa có hoa hồng đẹp quá. Chúng tôi thưa rằng "thật ra thì những người Phật tử của ngôi chùa Đài Loan trước kia họ trồng hoa hồng đó, chúng tôi cũng chỉ mới dời về đây mấy tuần lễ thôi", nhưng chúng tôi phải nhìn nhận đó là hoa hồng rất đẹp. Chúng tôi có thể đồng ý là hoa hồng đẹp nhưng  để hãnh diện nói đây là của tôi, do tôi trồng, thì không thể hãnh diện như vậy. Tại sao? Hoa hồng đó mình không trồng và mình không làm cái gì để cho nó đẹp, nó chỉ có mặt một cách rất tình cờ do người chủ trước đã trồng và bây giờ hoa nở ra đẹp, nhưng cũng không phải vì nó không phải mình trồng mà mình không thưởng thức nó, nó vẫn đẹp. 

Ví dụ, qúi Phật tử vào rơom nghe pháp, nghe một vị Sư giảng, đôi khi có nhiều người nghĩ ông Thầy là Thầy của mình ông nói gì mình nghe cũng hay và nếu ông Thầy không phải của mình thì ông nói gì nghe cũng dở, thì đó sự thiệt thòi của chúng ta. Không phải vì ông Thầy đó thân với mình mà ông thuyết pháp gì cũng hay, cũng không phải vì không thân với mình ông thuyết pháp gì cũng dở. 

Nhưng vấn đề chính của chúng ta là gì? chúng ta thường cột cái ngã của mình vào, đây là tôi, đây là của tôi, đây là tự ngã của tôi. 

4. Điểm thứ tư: Đức Phật Ngài dạy chúng ta nên đặt cái nhìn của mình, thứ nhất là chúng ta ý thức sự hiện hữu, cái ý thức sự hiện hữu Đức Phật gọi là Sati là Niệm. Nhưng sắc uẩn chỉ là uẩn, thọ uẩn chỉ là uẩn, các uẩn đó chỉ là uẩn, uẩn chỉ là uẩn, đó gọi là sự chú ý đơn thuần. 

Sự chú ý đơn thuần là pháp sanh diệt mình biết là nó sanh nó diệt, không thêm không bớt, chỉ biết như vậy thôi. Đây là một kỹ thuật một bí quyết rất khó trong đời sống. Chúng ta thường phản ứng hoặc xua đuổi những cái gì không thích, dẫy nảy từ chối cái gì  không vừa lòng và bám víu cái gì chúng ta vừa lòng trong đời sống. Nhưng trong sự dẫy nảy từ chối hay sự bám víu chấp thủ dính mắc chúng ta quên rằng tự mình chuốt lấy cái khổ. 

Bởi vì sao? Bởi vì các pháp có sanh và diệt, nó sanh và diệt theo tự tánh của nó, nó đến và đi, giống như đóa hoa hồng nở ở ngoài sân. Đóa hoa hồng nở không phải do sự chủ động của mình và khi nó tàn mình cũng không làm chủ được nó, nó nở ra đầy hương sắc mình cũng không làm chủ được nó nhưng mình vẫn nói cái hoa hồng là của tôi, nó nằm trong sân chùa của tôi thì nó là của tôi, tôi nên hãnh diện về nó khi ai khen vì nó là của tôi, nhưng kỳ thật hoa hồng chỉ là hoa hồng nó có tự tánh riêng của nó. Bây giờ qúi Phật tử nói "Thầy trồng hoa hồng đẹp quá" chúng tôi cũng không biết là chúng tôi có cái gì để hãnh diện với nó vì nó chỉ là nó thôi. 

Chúng ta nghe Đức Phật dạy rằng: "Này Chư Tỳ Kheo, cho nên sắc uẩn nào dù trong đời quá khứ hiện tại vị lai, bên trong bên ngoài, thô thiển, vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi, các con nên nhận thức bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vậy, đó không phải là ta, không phải là của ta, không phải là tự ngã của ta".

Khi mình nói sắc uẩn chỉ là sắc uẩn thôi, thọ uẩn chỉ là thọ uẩn thôi, tức là mình không thêm không bớt, nó đến như vậy và nó đi như vậy, không nói đây là "ta", đây là "của ta", đây là "tự ngã của ta". Cái nhìn đó là cái nhìn lẳng lặng trong cõi tịch lặng, cái nhìn của vô ưu, cái nhìn không có mang vào tự ngã kiến chấp, không có mang cái gì. 

Có cái gì để mà phải vật lộn khó chịu khi nhìn hơi thở vô hơi thở ra, rất đơn giản, hơi thở vô biết hơi thở vô, hơi thở ra biết hơi thở ra, cảm thọ đau nhức đến biết đau nhức, đi biết, chân mặt bước tới biết bước tới, dừng lại biết dừng lại, tất cả những thứ đó nó đến, nó đi, nó sanh, nó diệt, biết nó hiện hữu. Chỉ ghi nhận và ghi nhận một cách đơn thuần, đây là thở vô, đây là thở ra, thở dài, thở ngắn, không cần phải nói là "tôi thở", "tôi định tâm", "tôi thế này" "tôi thế kia", "tôi hay" "tôi dở". 

Tại sao mình phải làm như vậy?  Sự chú ý đơn thuần cho phép chúng ta nhìn vào thực tại bằng tâm rất an tịnh, cuộc sống là vậy, đến như vậy đi như vậy. Và cũng đừng nên quên một điều cái làm cho mình sung sướng nhất là ngã, ngã sở, mạn tùy miên, tức là cái tôi, cái ta, đây là của tôi, đây là tự ngã của tôi, chúng ta phải nhìn thấy rất kỹ nó chỉ là ảo giác thôi và nó mang lại cho chúng ta nhiều cái khổ, rất là nhiều cái khổ. 

Quí vị cứ tưởng tượng  ở trong cuộc đời mình người ta khen mình mình vui người ta nói nở lỗ mũi ra, người ta chê mình thì mình xụ mặt xuống. Có lần chúng tôi nghe Ngài Hộ Giác ví dụ,  Ngài nói tâm của mình không tu giống như cục bột người ta muốn nặn vuông thì vuông muốn nặn tròn thì tròn, cuộc đời họ muốn mình hí hửng họ khen mình một câu, cuộc đời họ muốn mình sầu muộn thì họ chê mình một câu, rõ ràng quan niệm về "tôi", "của tôi", "tự ngã của tôi" tạo cho mình vô số vết thương lòng, mình trách móc người khác, người ta chửi mình, nó mắng tôi, chửi tôi, cướp tôi v.v... nhưng  kỳ thật nó đến từ cái chấp sai  của mình. 

Đức Thế Tôn đã từng dùng rất nhiều thí dụ, một thí dụ nhẹ nhàng gần gủi chúng ta nhất là những chiếc lá trong sân chùa, những đồ trong chùa đã mất tánh tư hữu rồi mà nó là những chiếc lá rụng vào mùa thu, chiếc lá trên cành đôi khi người ta còn tha thiết nhưng lá rụng thì người ta chỉ quét dọn thôi và Đức Thế Tôn hỏi rằng: 

"Này Chư Tỳ nếu có ai đó đem những chiếc lá trong chùa Kỳ Viên gom lại đốt hay đổ xuống hố sâu các con có vì thế mà buồn mà phiền không?" 

"Bạch Đức Thế Tôn, không, tại vì chúng con không liên tưởng đến ngã, đến ngã sở"

Đức Phật dạy "sadhu, các con hãy nhìn 5 uẩn như vậy".

Nếu chúng ta có thể có một cái nhìn chú ý đơn thuần những pháp nào sanh khởi chúng ta biết sanh khởi, pháp nào diệt chúng ta biết là diệt, hơi thở của chúng ta, cảm thọ của chúng ta, những hiện tượng tâm lý sinh lý, những gì thuộc vật chất tinh thần, những gì nội phần, ngoại phần, trong và ngoài nó như một giòng chảy một giòng sinh diệt tiếp nối, chúng ta có thể càng ngày càng thấy rõ được bản chất phù du trong từng sát na. 

Ví dụ, hơi thở sau có cái gì để chấp với hơi thở trước, hơi thở trước có cái gì chấp với hơi thở sau. Cái cảm giác hồi nãy và bây giờ có gì để mà chấp. Hồi nãy mình có cảm giác sung sướng và nói "bữa nay tôi hạnh phúc quá" cái "tôi" trong đó nhưng bây giờ cảm giác nó đã đi mất rồi. Thọ chỉ là thọ thôi, tưởng chỉ là tưởng thôi, hành chỉ là hành thôi, thức chỉ là thức thôi. 

Bởi vậy phương thức tiếp cận với thực tại thiền Tứ Niệm Xứ là một phương thức rất lợi lạc, cái lợi lạc ở  đây là mình cho tâm mình một công việc đó là ghi nhận nhưng trong sự ghi nhận đó mình làm sao để tâm mình không có chấp thủ không có vướng vấp và làm thế nào ở trong cái nhìn, từ cái thấy, cái nghe, từ cái thọ, cái tưởng tất cả mọi thứ có thể được thấy được biết mà không cần phải đem vào trong đó quan niệm đây là "tôi", "đây là của tôi", "đây là tự ngã của tôi".

Sự tu tập trong Phật Pháp có khác với thế gian. Thế gian bắt đầu là đi tìm cái "ngã" đi tìm cái "tôi". Nhưng Đức Phật dạy chúng ta nên ý thức được cái nhìn sai lầm về ngã chấp ở trong chính cái thấy, cái nghe, cái tiếp xúc của mình. Và khi mình nhận thức được mình đã có lầm tưởng về cái "tôi", cái "của tôi", cái "tự ngã của tôi" thì thật sự nó không cần thiết để đặt ra vấn đề là cái gì thật sự là cái "ngã".

Thật ra, đây là một sự khác biệt rất lớn giữa Phật Giáo và Bà la môn giáo, giữa Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Phát Triển, thay vì đi tìm một cái gọi là chân ngã, thì không, tại sao phải đi tìm cái chân ngã, điều quan trọng là thắp sáng được ý thức, thấy được ngã chấp mang lại cho mình đau khổ, chừng đó là đủ, ở đâu chấp ngã thì ở đó khổ, bây giờ mình bớt chấp thì bớt khổ, càng bớt chấp thì bớt khổ, đó là pháp trị liệu rất đơn giản nhưng hữu hiệu vô cùng. 

Ngài Xá Lợi Phất dạy: khi người ta chửi mình thì mình nên thấy lời chửi là âm thanh, tai nghe, ý thức nhận biết. Đó chỉ là một thế giới của hiện tượng của căn cảnh thức gặp nhau, cũng là một cách chú ý đơn thuần. Trong cuộc sống này không dễ dàng để chúng ta thay đổi cái nhìn của mình. 

Ở đây, Bahiya đã từng sống trong tâm trạng nghĩ mình là Alahan, chỉ riêng nghĩ mình là Alahan đã là một ngã chấp rất lớn. Trong cái nhìn rất nôn nóng để đạt đạo, nôn nóng để trở thành vị Alahan. Đức Thế Tôn là bậc Tối Thượng Y Vương, Ngài thấy được điều đó và Đức Thế Tôn cũng phải giảm tốc độ đó xuống một chút, Ngài đã không dạy liền, nhưng bằng lời dạy rất ngắn gọn.

Chúng ta đọc kỹ đoạn này: "Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau".

Đọc câu này đôi khi chúng ta thấy phản phất nghĩa ở trong kinh chữ Hán "Ưng vô sở trụ. Nhi sanh kỳ tâm". Con người mình không chấp thủ ở đời này, đời sau, ở chặng giữa thì đoạn tận khổ đau. Nhưng chữ "kỳ tâm" chúng ta có thể hiểu đó là tâm hoàn toàn giải thoát.

 Đời sống con người hay đi tìm cái ngã của cái gì đang làm, của cái gì sẽ làm, và của cái gì chuyển tiếp điều đó, mình luôn luôn nghĩ mình sẽ có cái này, mình sẽ có cái kia, mình là người này, mình sẽ là người kia, mình có chức vụ này, chức vụ kia, mình được cái này được cái kia. 

Nhưng khi Đức Phật dạy: "Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau".

Lời dạy cô đọng đó hàm tàng một ý nghĩa rất lớn khi chúng ta nói một vị đoạn tận dục ái, hữu ái và phi hữu ái, không đơn giản để chúng ta hiểu và chính ở trong lời dạy ngắn gọn này Đức Thế Tôn đã nói lên đầy đủ ý nghĩa của Bốn Đế: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Ngài giảng dạy ở trong hình thức ngắn gọn nhất, ở trong phương pháp của thực hành hơn là lý thuyết. Ngài đã đề cập đến Khổ, Ngài đề cập đến Nguyên Nhân Sanh Khổ. Nguyên Nhân Sanh Khổ là đi tìm cái "ta" ở đời này, đời sau, ở chặng giữa, tầm cầu chỗ này tầm cầu chỗ kia. Khi sự tầm cầu đó vụt tắt thì đau khổ chấm dứt, nói chung là Diệt ĐếĐạo Đế

Đức Thế Tôn dạy Ngài Bahiya là vị đệ nhất về tốc trí tức trí tuệ rất nhanh do đó đối với chúng ta dĩ nhiên bài kệ này không đơn thuần có thể tiêu hóa liền, nhưng chúng ta hãy thử đem điều đó áp dụng trong đời sống hàng ngày, lâu lâu vào buổi sáng hay buổi chiều nhìn vào hơi thở của mình, hơi thở vào, hơi thở ra. Nhìn vào cảm thọ của mình, cảm thọ sanh và cảm thọ diệt. Cái vào cái ra của hơi thở, cái sanh cái diệt của cảm thọ, có cái gì để mình nói rằng đó là "ta", đó là "của ta", đó là "tự ngã của ta", có cái gì? Tất cả chỉ là một phần của giòng chảy, tất cả chỉ là một hiện tượng của một thế giới hiện tượng, tất cả đều đến và đi. Nhưng chúng ta thường ôm chầm những điều đó, rên xiết, kêu ca nói rằng " đây là tôi", "đây là của tôi", "đây là tự ngã của tôi". Để làm gì? Để mà khổ thôi. Đôi khi mình nghĩ rằng mình chấp là lớn chuyện lắm. Mỗi ngày qúi vị vào email đọc biết bao nhiêu thư, email chửi qua chửi lại để làm gì, chỉ để mà khổ thôi, nhưng chúng ta cảm thấy sung sướng điều đó, ngụp lặn trong điều đó, cảm thấy điều đó vinh quang, hơn nhau từng lời ăn tiếng nói là vinh quang nhưng mà để làm gì, để mà khổ thôi.

Đọc những giòng chữ này chúng ta cảm nhận được duyên lành lớn một vị Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, nếu không phải là Đức Phật, không phải là vị Giác Ngộ thì thật sự không biết bao giờ chúng ta có thể có được những lời dạy hoàn toàn khác biệt với tất cả những quan niệm thông thường. Chúng ta hô hào cổ võ quá nhiều về một thế giới này để càng lúc càng chấp thủ nhiều hơn, khổ cho mình và khổ cho người khác nhiều. Đức Phật dạy rằng đầu mối nằm ở trong tâm mình, cái gút nó nằm ở trong tâm mình, đó là sự chấp thủ, hãy nhìn, hãy nhìn một cách đơn thuần giản dị, thấy biết là thấy, nghe biết là nghe, cảm thọ biết cảm thọ, tưởng tri biết tưởng tri, thức tri biết thức tri, chỉ như vậy chúng ta an lạc.

Chúng tôi xin dứt lời ở đây và cầu mong rằng ánh sáng nhiệm màu của Phật Pháp sẽ tiếp tục xoi sáng thế gian này./.
Minh Hạnh chuyển biên, ngày 3 tháng 8 năm 2015