Saturday, January 7, 2017

Thập Nhi Nhân Duyên là gì?

Thập Nhị Nhân Duyên là gì? 

 TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học bên Thụy Sĩ

Minh Hạnh chuyển biên và biên tập

Đó là một câu hỏi mỗi chúng ta đều có câu trả lời khác nhau, bởi vì đây là một giáo lý chúng ta nghe rất thường. 

 Trước khi giảng lý Thập Nhị Nhân Duyên chúng tôi xin kể một câu chuyện. Có một lần chúng tôi nghe tin tức đài truyền hình CNN nói một bài tường thuật rất lý thú của một phóng viên người Hoa Kỳ, ông sang Trung Quốc làm phóng sự đã ghi nhận là từ năm 1949  khi Cộng Sản tuyên bố nắm quyền tại Hoa Lục có đưa ra đạo luật khắc khe về kế hoạch gia đình. Bởi vì dân Trung Hoa rất đông nếu sanh con tự do thì không có đất để ở, không đủ cơm để ăn, do vậy phần lớn các gia đình đều chỉ được phép sanh một đứa con. Điều này là một điểm đau buồn cho nhiều gia đình Trung Hoa, bởi vì người Trung Hoa quan niệm sanh con trai mới qúi, vì con trai mới nối giòng gia tộc, nhưng không phải ai cũng sanh được con trai, có người sanh con trai và có người sanh con gái, mà hễ sanh con gái rồi thì cũng đành chịu không thể sanh thêm một đứa nữa, nếu sanh thêm thì bị nhiều phiền phức với nhà cầm quyền và đứa con thứ hai sanh ra không được hưởng những quyền lợi như đứa con duy nhất trong gia đình. Như vậy đa số, và là một số rất đông người Trung Hoa bây giờ họ là đứa con duy nhất trong gia đình, không có anh chị em, cha mẹ họ cũng không có anh chị em, và không phải chỉ cha mẹ họ không có anh chị em mà ông bà họ cũng không có anh chị em. Các nhà nhân chủng học sang bên đó làm một cuộc thí nghiệm là họ mang rất nhiều những tập sách kể câu chuyện về tình huynh đệ, tình chú bác cô dì để cho những người này đọc, khi họ tìm hiểu lại thì những người này đọc đã không cảm nhận được tình anh em, giống như chúng ta là người bình thường. Tại vì sao vậy? tại vì họ chưa bao giờ lớn lên trong tình anh em, chưa bao giờ lớn lên trong tình cô dì chú bác, vì sao? Vì bản thân của họ, cha mẹ của họ, ông bà của họ từ nhiều thế hệ rồi chỉ là một đứa con duy nhất trong gia đình mà thôi. 

Đây là một điểm chúng tôi muốn dùng câu chuyện này để khởi đầu cho bài giáo lý Duyên Sinh ngày hôm nay. Có những sự việc rất bình thường trong đời sống của chúng ta, chúng ta nghĩ rằng không có điều gì đáng cho ta suy nghĩ hết, như ai sanh ra ở trên đời này cũng có cha mẹ ông bà có anh chị em, do vậy khi chúng ta nghe nói đến tình anh em ruột thì chúng ta nghe rất bình thường, không có chuyện gì để suy nghĩ, nó bình thường giống như là ánh nắng mặt trời, bình thường giống như cơm ăn áo mặc. Nhưng mà rồi, nếu tưởng tượng chúng ta là một người lớn lên tại Trung Quốc mà bản thân của mình chưa bao giờ có anh chị em, và cha mẹ mình cũng chưa bao giờ nói về tình anh chị em tại vì cha mình cũng là con duy nhất và mẹ mình cũng là con duy nhất, thì có lẽ rất khó cho chúng ta đọc sách khi kể về chuyện anh em cảm động như thế nào, chúng ta khó mường tượng được, bởi vì chúng ta không có anh chị em. 

Nên có một sự thật ở trong đời sống là bởi vì cuộc sống này nó có nhân duyên của nó, nó có nguyên nhân xâu xa của nó nhưng đối với chúng ta sự việc đó nó vô cùng bình thường, tại vì chúng ta chưa bao giờ nghĩ tới nó hết. Cũng như ánh sáng mặt trời mang lại cho chúng ta rất nhiều thứ, ánh sáng mặt trời đem lại cho chúng ta sự ấm áp trên trái đất này, ánh sáng mặt trời giết một số các vi trùng có thể hại đến sức khoẻ của chúng ta, ánh sáng mặt trời mang lại năng lượng cho cơ cấu, nhưng trước khi các nhà khoa học cho chúng ta biết điều đó thì chúng ta nhìn ánh sáng mặt trời rất bình thường như cái gì xảy ra vậy. 

Giáo lý duyên sinh và duyên hệ Đức Phật dạy cho chúng ta là một giáo lý phát động ảnh hưởng đến chúng ta rất nhiều, hầu như trong mọi ngõ ngách của đời sống chung nhưng chúng ta ít khi để ý đến. Bởi vì sao vậy? bởi vì chúng ta thấy điều đó rất bình thường. 

 Ví dụ như Đức Phật Ngài nói: "Do cái này có thì cái kia có, do cái này diệt thì cái kia diệt, do cái này không có nên cái kia không có." Đó là câu nói về duyên sinh, đối với chúng ta chuyện đó rất bình thường và không có gì có ý nghĩa lớn lao hết.

 Nhưng với một người tu tập thì câu nói đó rất quan trọng. Tại vì sao vậy? Tại vì sự tu tập của chúng ta dựa trên tinh thần nhân quả, nếu chúng ta biết cái này nó do nhân nào và cái này tạo nên quả nào, thì đời sống của chúng ta hoàn toàn khác biệt. Bởi vì không tin vào lý nhân quả, không hiểu về lý duyên sinh, không hiểu về nguyên nhân của các pháp, do vậy chúng ta cứ làm, chúng ta cứ hành động. Ở trong đời này người nào hành động mà có suy nghĩ thì đời sống họ khác biệt hơn một người đụng đâu làm đó, đụng đâu nói đó và không biết tu tập. Một người sở dĩ họ có những lời nói cẩn trọng là bởi vì họ biết rằng lời nói có tác dụng của nó và lời nói có cái quả của nó. Có những người cũng thời gặp hoàn cảnh khó khăn, có những người than thân trách phận, có những người cảm thấy rất bình thường. Tại vì sao vậy? Tại vì họ biết được nhân quả. Như trường hợp ở trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn ai cũng khổ hết thì khi chúng ta thất nghiệp chúng ta ít buồn tại vì đây là kinh tế khó khăn ai cũng giống nhau. Đó là chúng ta biết được nhân của nó, nhưng nếu một người không có suy nghĩ thì họ trách móc, họ trách chính quyền, họ trách cha mẹ, trách ông chủ tại sao đuổi không cho mình làm tiếp tục công việc nữa. Như vậy biết nhân quả cũng thay đổi đời sống rất nhiều. 

Đức Phật dạy một người trong đời sống biết được lý nhân quả chúng ta có thay đổi 5, 6 chục phần trăm cái nhìn về cuộc sống này. Do vậy giáo lý nhân duyên là một giáo lý có thể tìm thấy trong lời dạy của Đức Phật. 

Đức Phật Ngài giảng về Tứ Đế Ngài nói về lý Nhân Duyên. Ngài nói:

 "Đây là khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ.

Nói sự khổ không không quan trọng mà phải nói đến nguyên nhân của nó mới quan trọng, Ngài nói "Đây là hạnh phúc" cũng chưa quan trọng mà Ngài nói rằng: "Đây là con đường mang đến hạnh phúc." Thì điều đó là điều rất ư là quan trọng ở trong sự tu tập của mình. 

Giáo lý Nhân Duyên là một giáo lý qua đó Đức Phật cho chúng ta những dụng cụ. Chúng tôi nói "những dụng cụ" ở đây bởi vì chúng tôi muốn tất cả chúng ta nhìn vào giáo lý Nhân Duyên giống như một pháp môn cụ thể thực tế để chúng ta đào sâu vào đời sống hơn là dùng nó giống như một lý thuyết một quan niệm mà chúng ta thường dùng. 

Nhiều lần Đức Phật Ngài nhấn mạnh trong các bài pháp của Ngài rằng những gì Ngài truyền dạy cho chúng ta đều là những phương tiện giúp chúng ta tu tập và sự việc này là một sự việc người Phật tử nên mang vào trong lòng, bởi vì chúng ta đang nhìn vào lời dạy của Đức Phật là những phương tiện giúp chúng ta tu tập một cách cụ thể hơn là những điều để giải buồn. 

Khi chúng ta nghe một câu chuyện giải buồn, nghe qua thì nghe. Thử mường tượng như vầy, bây giờ qúi vị làm vườn, qúi vị muốn trồng hoa, muốn trồng cây ăn trái, một người nào đó mang đến cho qúi vị một ít phân ít đất và những dụng cụ cuốc xẻn v.v... họ cho những điều đó không phải để chúng ta nhìn nó để phán rằng nó đẹp nó có giá trị một món quà, mà chúng ta dùng những dụng cụ đó để làm vườn và làm công việc của mình. 

Thì giáo lý của Đức Phật không phải Đức Phật Ngài giảng ra để chúng ta thấy rằng Đức Phật hay, Đức Phật giỏi, hay khi chúng ta nghe giáo lý Đức Phật thì nghĩ rằng À! Đức Phật Ngài cho chúng ta những điều này để chúng ta đi ra bên ngoài gặp những người ngoài đạo nói với họ rằng đạo của chúng tôi hay như vầy, đạo của chúng tôi dạy như thế kia. Thật sự tất cả những lời dạy của Đức Phật đều được dạy với một mục đích cho chúng ta dụng cụ, và dụng cụ đó để chúng ta đào sâu thêm, chúng ta làm tốt thêm, và chúng ta thay đổi được đời sống của mình qua sự tu tập. 

Như vậy, giáo lý Nhân Duyên cũng nên được cần lãnh hội trong đời sống như là phương tiện để sống, phương tiện đó giúp cho chúng ta đào sâu đến gần sự thật nhiều hơn 

Bây giờ chúng ta nên đi một cách trực tiếp hơn với câu hỏi:

  - Lý Nhân Duyên là gì?

Chúng tôi rất tiếc khi nói về lý Nhân Duyên cho đến bây giờ trong kho tàng kinh điển đạo Phật bằng tiếng Việt của chúng ta chưa có một quyển sách nào nói về lý Nhân Duyên đến mức độ đầy đủ để chúng ta có thể nói rằng chỉ cần đọc quyển sách đó và không cần đọc quyển sách khác. 

Vì vậy chúng tôi mong qúi vị kiên nhẫn đọc nhiều quyển sách khác nhau cũng giống như chúng ta đọc kinh vậy, chúng ta gom đầu này một ít, đầu kia một ít, bởi vì chúng ta chưa có một tổng hợp nào đầy đủ.

 Một  quyển sách tựa đề "Vòng luân hồi". Trong quyển sách này có giảng về lý Thập Nhị Nhân Duyên tương đối đi vào những điểm căn bản, cuốn sách này có cống hiến cho chúng ta một đồ hình về Thập Nhị Nhân Duyên, và đồ hình này không giúp cho chúng ta đi vào hết tất cả những chi tiết quan trọng của lý Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng đồ hình này là một công trình của những người Phật tử Tây Tạng đã cố gắng vẽ lý nhân duyên lên trên tường của họ, để nhắc nhở họ về lý duyên khởi trong đời sống tu tập hằng ngày, và bởi vì nhiều năm nhiều tháng và với sự kiên nhẫn lâu dài họ đã vẽ được một đồ hình về nhân duyên một cách rất có ý nghĩa và quả thật là đồ hình này là phương tiện tốt để chúng ta không phải chỉ nhớ mà chúng ta phải suy ngẫm về lý nhân duyên. 

Thường thường chúng ta nghe nói đến 12 nhân duyên là:

 1 - Vô minh (avidyā),
 2 - Hành (saṃskāra), (hành động)
3 - Thức (vijñāna), (ý thức)
4 - Danh sắc (nāma-rūpa),
 5 - Lục xứ (ṣaḍ-āyatana), 
6 - Xúc (sparśa),
 7 - Thọ (vedanā),
 8 - Ái (tṛṣṇā), 
9 - Thủ (upādāna), 
10 - Hữu (bhava),
 11 - Sinh (jāti), 
12 - Lão tử (jarā-maraṇa). 

Khi nói đến 12 nhân duyên, định nghĩa là vô minh là gì, hành là gì, thức là gì và khi chúng ta được giải thích vô minh là gì, hành là gì, thức là gì thì chúng ta nghĩ rằng đủ rồi như vậy là mình biết được 12 nhân duyên, cũng giống như mình nói có 7 pháp giác chi, thứ nhất là gì, pháp thứ hai là gì, pháp thứ ba là gì, pháp thứ tư là gì và nghe xong 7 pháp như vậy là đủ. Nhưng thật sự như vậy không đủ đối với lý nhân duyên. 

Đúng ra trong phần lời dạy của Đức Phật về Thập Nhị Nhân Duyên thì sự quan trọng chúng ta phải hiểu không phải vô minh là gì, mà là "thế nào là vô minh duyên hành, thế nào là hành duyên thức, rồi thế nào là thức duyên danh sắc v.v...". 

Bởi vì sao? Bởi vì Đức Phật Ngài nói chính do hành nên có thức, chính do vô minh nên có hành, thì như vậy vô minh là nhân, hành là quả, do vậy chúng ta phải đặt vấn đề tại sao vô minh duyên cho hành và tại sao hành được có bởi vô minh và vì vậy khi Đức Phật Ngài nói về giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên, Ngài định nghĩa vô minh là gì, nhưng Ngài cũng nói rằng thế nào là vô minh duyên cho hành, chữ "duyên" ở đây có nghĩa là nhân tác động tạo nên. Do vậy khi chúng ta hiểu tại sao "vô minh duyên cho hành" thì điều đó là điều rất tốt để chúng ta hiểu được một phần của giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên chứ không phải là chúng ta hiểu là vô minh là gì thì là đủ. Thí dụ như  đi vào trong công sở chúng ta có thể tìm hiểu người giám đốc là gì và người quản lý là gì nhưng mà rồi cũng quan trọng để chúng ta hiểu sự quan hệ giữa người giám đốc và người quản lý ra sao, cái đó chỉ là một phần thôi tuy nhiên phần khác quan trọng, ví dụ như ở trong chùa chúng ta có anh A và anh B, và hỏi anh A là gì anh B là gì nhưng mà quan hệ của họ ra sao, khi chúng ta hiểu quan hệ của họ ra sao thì chúng ta mới hiểu tổ chức của ngôi chùa và chúng ta mới hiểu cơ cấu của cơ quan đó. 

Do vậy khi nói về giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta sẽ nói về quan hệ giữa các chi pháp. Khởi đầu tiên của giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên là vô minh duyên cho hành. Ở trong sơ đồ giảng về 12 nhân duyên trong hình tương đối dễ hiểu nhất chúng tôi muốn mượn cách trình bày và bố cục của đồ hình này.


 Ngày hôm nay tại Tây Tạng tất cả những bức hình về Thập Nhị Nhân Duyên đại để đều giống nhau nhưng những chi tiết thì khác nhau và không ai biết được tác giả của đồ hình này là ai, tuy nhiên họ biết rằng đồ hình đó cho họ rất nhiều, nhưng mỗi người họ vẽ một cách khác. Giống như hình Đức Phật, họ vẽ hình Đức Phật đản sanh thì có Hoàng Hậu Maya có Đức Bồ Tát sơ sinh và 7 đoá hoa sen nhưng mỗi người hoạ sĩ họ vẽ khác nhau và không ai lấy ý kiến của ai, chỉ lấy từ trong kinh ra mà thôi. Không phải chúng tôi lạc đề mà chúng tôi chỉ muốn rằng trước khi đi sâu vào Thập Nhị Nhân Duyên thì chúng ta nên có ý niệm đại khái về lý Nhân Duyên. 

Hình có thể được nhìn từ ở bên ngoài vào ở bên trong và từ trong ra phía bên ngoài, tập đồ hình này có thể hiểu từ trong ra bên ngoài được là như vầy: 

- Vòng bên trong là tâm điểm của nó, tượng trưng cho tâm phiền não, phiền não này gồm có một con gà, một con rắn và một con heo. 

 Tâm Tham: con gà nó có thói quen hay bơi móc, đi tìm kiếm thì điều đó tượng trưng cho tham, tại vì tâm tham này mà đồ trong shopping trong siêu thị đồ nào tốt cũng ráng đi tìm cũng giống như con gà đi bươi cỏ bươi cùng khắp. 

Tâm Sân: giống như con rắn, con rắn hễ mình đạp nó là nó quay lại cắn đó là thói quen của con rắn, thì lòng sân được nói lên ở đây ví dụ như con rắn.

 Tâm Si: con heo tượng trưng cho tâm si bởi vì con heo chỉ biết ăn và biết ngủ thôi ngoài ra không biết gì nữa hết. 

Do vậy ba con vật này tượng trưng cho Tham Sân Si. 

 - Vòng ở bên ngoài cũng là cái vòng tròn nhưng một bên trắng một bên đen tượng trưng cho hành động thiện và hành động bất thiện. Điều này là một điều rất lạ và chỉ khi nào chúng ta tìm hiểu về giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên thì chúng ta mới hiểu là tại sao cả việc thiện và việc bất thiện trong đời chúng ta làm đều liên quan đến phiền não, tại vì chúng ta nghĩ rằng chỉ có việc bất thiện mới được tạo nên phiền não. Tuy nhiên, phiền não có nhiều cách, có những cách rất thô, có những cách rất vi tế, nó vi tế đến nỗi phiền não nó nằm ở trong việc thiện mà chúng ta không thấy. 

Thí dụ, một người mang bông hoa đến chùa cúng Phật, nhưng họ nguyện: " Nguyện cho đời sau con thiệt là đẹp". Việc người đó cúng Phật là thiện hoàn toàn nhưng lại có liên quan đến phiền não ở giữa này. 

Do vậy khi nói "vô minh duyên cho hành" thì vô minh là si ám mê mờ không biết không thấy, nhưng nói đến hành là hành động thì có thiện và bất thiện, không phải chỉ vô minh là tạo nên hành động bất thiện mà cũng tạo hành động thiện nữa, và điều này ý nghĩa rất là khó hiểu. Cũng giống khi chúng ta nói về khổ đế có nhiều cái chúng ta thấy là hạnh phúc nhưng nó cũng là khổ, có nhiều thứ trong đời sống chúng ta thấy nó rất là thiện nhưng mà nó có căn bản của bất thiện của phiền não. Và từ hành động thiện và bất thiện này nó sẽ tạo ra quả là sáu cảnh giới đi thọ sanh, chúng ta thường gọi là lục đạo. 

Lục đạo là:

 1. cõi người sinh hoạt,

 2.  cõi trời, 

3.  a tu la, 

4. ngã qủi, 

5. địa ngục,

 6. súc sinh, 

Đó là sáu đường ác đạo. Nói tóm lại là vòng tâm điểm thì nói đến phiền não. 

Vòng thứ hai nói đến nghiệp. 

Vòng thứ ba nói đến quả. 

Phiền não, nghiệp, và quả, ba cái đi chung với nhau, cái này duyên cái kia, cái kia duyên cái này. Nhưng nhân duyên này giữa phiền não và nghiệp và quả nếu chỉ nói một cách đại khái bình thường như chúng ta hiểu được, nhưng có những cái chúng ta không thể hiểu được nếu chúng ta không hiểu  nhiều về 12 lý Nhân Duyên này. 

Do vậy, đồ hình 12 lý nhân duyên được bao gồm ở bên ngoài cũng nói về nghiệp quả và phiền não. 
Ví dụ, chúng ta nói:

 - Vô Minh là phiền não, 

- Hành là nghiệp, 

- Thức và Danh Sắc là quả, 

Nhưng được trình bày với ý niệm khác. 

Nên chi hiểu phiền não, nghiệp và quả trong ý niệm này chưa đủ, phải hiểu về 12 lý nhân duyên là sự liên hệ của nó thì mới đủ. 

 - Hình vẽ một con qủi Vô Thường, theo trong các đồ hình của Tây Tạng thì con qủi vô thường này được trang điểm trên đầu bằng những sọ người, và những sọ người này nói lên là đời sống luôn luôn đi tới chỗ hoại, đi đến chỗ thay đổi. Chúng ta đi liên tục từ đời này qua đời kia một chuỗi dài gọi là "Tiền tiền vô thủy hậu hậu vô chung", do đó cái đuôi nó rất dài đi vào trong vô tận chúng ta không thấy hết được, cũng giống như chúng ta luân hồi từ nhiều kiếp cho đến bây giờ chúng ta không thể truy tìm ra được cái sở nguyên của nó. Cái đuôi nó cũng giống như là nhân duyên nhiều đời quá khứ chúng ta gọi là "Tiền tiền vô thủy" 

Chung quanh sơ đồ là lửa đang cháy, người Trung Hoa dịch là "Tam giới như hoả thạch" là ba cõi giống như lửa. Bởi vì có thay đổi, có nhân duyên thành ra có đau khổ. Và nhờ vào giáo pháp của Đức Phật, giáo pháp ở trong họa đồ là Tám Hoa Sen tượng trưng cho Bát Chánh Đạo đưa con người đến giác ngộ giải thoát và trong họa đồ có hình Đức Phật Ngài đang giảng về lý duyên khởi.


Một câu ví dụ của Đức Phật, Ngài nói rằng: 
"Giáo lý Duyên Sinh tức là Thập Nhị Nhân Duyên giống như một cuồng chỉ rối". 

Chỉ có một người đại trí là Đức Phật Ngài gỡ ra được. Khi mình cầm cuộn chỉ rối lên thì không biết khúc nào là khúc đầu và khúc nào là khúc đuôi thành ra đời sống rối như cuộn chỉ rối.

 Thí dụ, mình có một người bạn có chuyện buồn phiền nếu mình muốn tìm ra nguyên nhân thì không phải dễ, chỉ cái chuyện nhỏ như vậy thôi, có thể là vì người ta không được khỏe trong người, hay một chuyện cá nhân, hay có ai đã đụng chạm đến người đó. Vì vậy đời sống hết sức là rối. 

Hay ở trong một quốc gia đôi khi kinh tế lên xuống, thị trường chứng khoán lên xuống, người thì nói do nguyên nhân này, kẻ thì nói do nguyên nhân kia. Nhưng đôi lúc có rất nhiều nguyên nhân, và đôi lúc chỉ do một nguyên nhân . Như trường hợp ngày xưa Tổng Thống Bush đi sang Nhật tự nhiên ông đau bụng rồi xỉu trên bàn tiệc và chỉ chuyện Tổng Thống Bush xỉu trên bàn tiệc mà làm cho thị trường chứng khoán ở New York đi xuống với một nguyên nhân rất nhỏ như vậy. 

Ở Hoa Kỳ càng lúc những người trẻ vào tù càng nhiều, nhiều đến nỗi ngày hôm nay rất nhiều tiểu bang họ đã viết một bộ luật mới là phải xử những trẻ nhỏ như thế nào, trẻ tuổi vị thành niên 14, 15 tuổi mà đã cầm súng bắn người khác, giết cha giết mẹ thì không thể nào gửi nó vào trong trại cải huấn bình thường được, mà phải đối xử nó như một tù nhân thật sự. Thì khi gặp những trường hợp xảy ra như vậy, nhiều nhà giáo dục và các cơ quan chính phủ họp lại hỏi rằng mình làm thế nào để cải thiện? Thì họ mới đưa ra là mình phải tìm nguyên nhân nó như thế nào? Thì đủ thứ nguyên nhân, nguyên nhân là ở Hoa kỳ hầu hết trong một gia đình thường thì cả cha cả mẹ đều đi làm, bà mẹ vì đi làm nên họ gửi con chớ không có thì giờ để lo cho con do vậy con hư, rồi những người nam nữ họ cưới nhau rất sớm, không suy nghĩ cặn kẽ về hôn nhân và gia đình họ đi đến chỗ đổ vỡ, rồi cha mẹ ly dị, hoặc Ti Vi chiếu nhiều phim bạo động quá, bắn giết nhau nhiều quá trẻ nhỏ đâm ra hiếu sát, tạo cho mấy đứa nhỏ hư. Có muôn ngàn vấn đề mình phải bàn tới.

 Như vậy, cho chúng ta một ý nghĩa là ở trong đời sống này nhiều lúc chúng ta nhìn vấn đề một cách đơn giản quá và nó khó chịu quá, do đó chúng ta không muốn nhìn, không muốn đào sâu nó nữa. Cái chuyện vui buồn bất chợt ở trong lòng của mình là vấn đề khó xử. 

 Đức Phật Ngài nói trong kinh Ngài thường khuyên các vị tỳ kheo khi đi chỗ này chỗ kia biết về phong thổ, biết về điạ lý. Đức Phật Ngài nói rằng: 

"Này các tỳ kheo chính thân của các con, cái thân nhỏ đó là cả một thế giới và thế giới cần phải được tìm hiểu, nếu các con muốn tìm hiểu thế giới bên ngoài thì cũng nên tìm thế giới bên trong ." ./.

Xem tiếp các phần tiếp theo bấm vào bên phải các đề tài của Thập Nhị Nhân Duyên

Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 1 - Vô Minh duyên Hành

Thập Nhị Nhân Duyên 
 Bài 1 - Vô Minh Duyên Cho Hành 

TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học bên Thụy Sĩ

Chánh Hạnh chuyển biên, Minh Hạnh biên tập

Tại sao có những lúc chúng ta làm việc hăng hái, nghe pháp cũng hăng hái, tu hành cũng hăng hái. Có những lúc chúng ta không muốn đi chùa không muốn cầm quyển kinh nữa. Tại sao có những lúc chúng ta rất dễ thương, có những lúc chúng ta rất dễ giận. Có những lúc con người chúng ta rất rộng rãi, độ lượng dễ tha thứ. Nhưng có những lúc chúng ta ai làm chuyện gì nhỏ cũng bực mình. Các nhà tâm lý học gọi là những xúc cảm, tức là những cảm xúc phức tạp trong tâm hồn mình. Chính địều đó đã là khó hiểu hà thứ là muôn vàn điều khác. 

Như vậy khi tìm hiểu lý Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta phải có một chút kiên nhẫn. Khác hơn Tứ Đế, vì Tứ Đế rất dễ nói. Đây là khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ, đây là hạnh phúc, đây là con đường đưa đến hạnh phúc. Tương đối những ý nghĩa rất gần gũi với chúng ta. Nhưng khi nói tại sao "vô minh duyên cho hành", tại sao "hành duyên cho thức", tại sao "thức duyên cho danh sắc" và "danh sắc duyên cho lục nhập", ý niệm về thời gian và không gian hoàn toàn là cái gì rất khó hiểu. Lấy ví dụ như vầy, khi chúng ta nói "thức duyên cho danh sắc", chúng ta nói từ đời này qua đời kia, từ kiếp này qua kiếp kia, tức là hai kiếp. Nhưng khi nói xúc "duyên cho thọ", tức là thấy cảnh tự nhiên vui, thì đó là cái mảy may. Hoặc giả "sanh duyên cho lão tử", tức là từ lúc bắt đầu đời sống đến lúc chấm dứt đời sống. Như vậy chỉ với vấn đề thời gian thôi đã là khó hiểu rồi.

Có lúc chúng ta nói thật dài và có lúc chúng ta nói thật ngắn. Tại sao sanh không duyên cho bệnh, không duyên cho khổ, mà duyên cho già chết. Tại sao chúng ta nói hột xoài là nhân, trái xoài là quả mà chúng ta không nói lá xoài, cành cây xoài, thân cây xoài là quả. Như vậy là nó có ý nghĩa riêng của nó. 

Do vậy khi học về giáo lý duyên khởi, chúng tôi rất cẩn thận dè dặt, bởi vì sao? Vì nếu trình bày thiếu cặn kẻ, thiếu chi tiết dễ tạo nhiều sự hiểu lầm. 

Bây giờ chúng tôi lấy con người làm ví dụ cho bài giảng đầu tiên “ Vô minh duyên cho hành”. 

Thế nào là vô minh duyên cho hành?

 Vô minh đã được định nghĩa trong kinh tạng nghĩa là không thấy không biết được sự khổ và nguyên nhân của nó, sự nguy hiểm của nó. Bởi vì không thấy không biết nên không ngừng hành động. Nghe nói như vậy chúng ta thấy rất lạ, rất lạ tại vì sao? Tại vì chúng ta nghĩ rằng cái gì trong đời sống mình làm là do chúng ta biết, chúng ta suy nghĩ. Do chúng ta suy nghĩ chúng ta mới hành động, nhưng thật ra chúng ta hành động bởi vì chúng ta không biết. 

-Ví dụ, chúng tôi hỏi quý vị, “Quý vị làm nghề gì?”

-Quý vị trả lời, “ Tôi làm nghề thư ký”, 

-Chúng tôi hỏi tiếp, “ Quý vị có dám đoan chắc rằng, nghề thư ký là nghề tốt nhất trong cuộc đời quý vị không? Quý vị có chắc không?”. 

-“Tại sao quý vị không chắc?” 

-Nhưng hỏi, “ Tại sao quý vị không chắc mà lại chọn nghề thư ký?” 

-Quí vị trả lời là " vì không biết phải làm cái gì" . 

Nếu như sáng nay chúng ta ngồi xem TV.

- Hỏi rằng, “ Việc ngồi coi TV có phải là việc làm tốt nhất trong đời quý vị không?” 

-Quý vị nói, “ không chắc như vậy”.

-Nhưng hỏi, “ Tại sao quý vị không làm cái gì khác thay vì ngồi coi TV?” 

Vì Quý vị không biết làm gì bây giờ. Quý vị đâm ra ngớ ngẩn. 

Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu triệu con người chúng ta đến từ cái mà chúng ta gọi là không biết. Nếu chúng ta biết, chúng ta sẽ khác hơn nhiều. Nếu chúng ta biết điều thực sự mình phải làm gì, chúng ta thành Phật hết rồi. Chúng ta biết mình phải ăn như thế nào, phải nói như thế nào, phải suy nghĩ như thế nào, phải làm như thế nào thì chúng ta thành Phật rồi. Nhưng cuộc đời này đang tiếp tục đang tồn tại là bởi vì chúng ta không biết.

Ông bà chúng ta có câu nói chúng tôi lấy làm thí dụ: “ Trăm người mua, vạn người bán”. Trên đời này lúc nào cũng có một số người nghỉ rằng, “Đây là thời gian tốt nhất để bán ra, đây là thời gian tốt nhất để mua vào”. Quý vị nào biết thị trường chứng khoán sẽ rõ. Có điều lạ lùng lúc nào cũng có người nghĩ rằng thời gian tốt để mua vì họ không mua thì không ai bán được, phải không?. Lúc nào cũng có một số người nghĩ rằng, “Đây là lúc để bán ra”. Như vậy có người mua mới có người bán và có người bán mới có người mua, nhưng tất cả đều là trò chơi mạo hiểm, vì không ai biết chắc nó sẽ ra sao hết. Nhưng nếu không có cái mạo hiểm đó. Nếu quý vị biết rõ rngày mai quý vị mua cổ phần đó, quý vị sẽ giàu to. Nếu ai cũng biết được thì thị trường chứng khoán sẽ đóng cửa vì không ai bán, không ai bán thì không có người mua. Như vậy thị trường chứng khoáng tồn tại ở đâu? Tồn tại ở chỗ cái không biết của người ta. Nếu có ngươi biết thì sao? Thì cuộc đời sẽ không hiện hữu nữa.

Đức Phật nói: “ Vô minh duyên cho hành”. 

Người Anh có câu nói rằng, “ If you don’t know anything, do nothing.” Nghĩa là nếu quý vị không biết phải làm cái gì thì đừng làm cái gì hết. Tại sao họ nói câu nói đó, tại vì chúng ta theo thói quen khi không biết phải làm gì thì chúng ta làm nhiều thứ, chúng ta làm đủ thứ chuyện hết. Những lúc chúng ta cảm thấy bối rối trong tâm hồn, chúng ta thắc mắc, chúng ta chạy ra chạy vô. Người khác họ nói rằng, “ Anh nói nhiều cũng vậy, anh lo nhiều cũng vậy, anh đi tới đi lui cũng vậy, anh lo cũng vậy, cũng chẳng giải quyết được vấn đề”. Nhưng chúng ta không chịu ngồi yên đâu. Chúng ta phải làm cái gì đó, tại vì sao? Tại vì chúng ta không biết phải làm cái gì. 

Ở hải ngoại chúng ta nói rất nhiều về tự do, nói rất nhiều về giải phóng đất nước, nói rất nhiều về đoàn kết. Chúng ta nói nhiều như vậy vì chúng ta không biết làm cái gì cả. Vâng, bởi vì chúng ta chưa biết phải làm cái gì nên chúng ta phải nói. Mới nghe nói có vẻ rất vô lý. 

Chúng ta bố thí, trì giới, tham thiền vì nghĩ rằng, “ Nó có quả tốt”. Có quả lành thì chúng ta phải làm. Chúng ta biết và chúng ta làm chí công để có quả tốt.  Cũng giống như quý vị đang đi làm, là bởi vì quý vị nghĩ rằng quý vị đã có lựa chọn tốt. 

Những cặp vợ chồng thường đặt những câu hỏi như vầy: 

-“ Nếu bây giờ cho anh hoặc em có cơ hội lựa chọn lại người anh hoặc em để kết nghĩa trăm năm thì anh hoặc em có chọn nhau nữa hay không?” 

Chuyện đó thật khó trả lời. Dĩ nhiên lúc lựa chọn phải có thương yêu, cũng có nghĩ cái này cái kia, nhưng bây giờ hỏi một cách thành thật như vậy. Quý vị đã sống với nhau 10 năm 20 năm, quý vị có dám chắc rằng người vợ hay người chồng quý vị đang sống là người đàn ông tốt nhất là người đàn bà tốt nhất trong cuộc đời hay không? Có người sẽ trả lời không chắc, đó là số mạng. Cái gì chúng ta cũng đổ thừa cho số mạng, đó là gì? Đó là vì chúng ta không biết. Chúng ta không biết cái gì chắc, không biết cái gì rõ ràng hết, do không biết đó chúng ta vô minh. Cái không biết đó Đức Phật Ngài nói: “ Chúng ta không biết bản chất của sự khổ” Và cuộc đời này tiếp tục được tồn tại trong sự u tối đó. Khi nào ánh sáng được mở ra, tất cả mọi thứ đều được nhìn thấy. Như Đức Phật nói trong kinh: “ Khi một người đắc đạo nhìn thấy cuộc sống một cách rõ ràng, họ không còn thích thú, không còn đam mê nữa”.

Ngày xưa khi Đức Bồ Tát là một vị vua. Một hôm Ngài đi ra khỏi bờ thành, trên đường Ngài nhìn thấy trên cây xoài có rất nhiều trái, gần đến độ chín. Một cây xoài tốt như vậy, tươi như vậy, ngon lành như vậy, nhưng Ngài chỉ nhìn rồi tiếp tục đi. Chiều hôm đó Ngài trở về Hoàng cung, khi đi ngang cây xoài, lúc bấy giờ Ngài nhìn thấy cây xoài đó xơ xác hết, không còn được nguyên trạng như lúc sáng. Ngài hiểu rằng có một nhóm người đi ngang đây nhìn thấy cây xoài và bởi vì cây xoài có trái ngon nên họ đã bẻ và phá hại cây xoài. Ý nghĩ khởi lên đầu óc của Ngài, Ngài nói rằng, “Ở đâu có danh và ở đó có lợi thì ở đó có lòng tham, ở đâu có mật ở đó có ruồi, ở đâu có lòng tham thì ở đó có phiền não, và người nào có những thứ đó giống như cây xoài có trái vậy, sẽ gặp muôn vàn bất hạnh”. Ngài trở về và quyết định trở thành đạo sĩ.

Cái nhìn vào Nhân-Quả là cái nhìn rất tế nhị. Khi chúng ta nói "vô minh duyên cho hành". Với cái nhìn bình thường của chúng ta cây xoài bị tơi tả là tại vì người ta làm cho nó tơi tả. Đó là cái nhìn của chúng ta. Nếu chúng ta là chủ cây xoài chúng ta sẽ bực mình và chửi mắng những người đó, “ Không biết ai đã phá cây xoài của mình” Nhưng với cái nhìn của một bậc thiện trí thức như Bồ Tát lại khác, “ Cây xoài sở dĩ nó bị tơi tả như vậy vì nó có trái xoài”. Cái nhìn đó khác với chúng ta nhiều. Không biết trong đời sống của chúng ta có thể nhìn thấy được sự khác biệt đó hay không? Khi chúng ta cho rằng cây xoài bị tơi tả bởi vì do có người hái phá nó, những người thiếu ý thức đã làm hại nó. Thay vì cây xoài này sở dĩ bị tơi tả như vậy do chính nó có trái xoài.

Cũng như vậy, lúc nhỏ khi có ai nói chúng ta buồn lòng chúng ta thường nói, 

-“ Ngày hôm nay tôi cảm thấy rất bực bội vì anh A anh B đã xỉ vả tôi ” 

Nhưng nếu chúng ta là người tu thiền chúng ta phải nói rằng,

-“ Ngày hôm nay chúng ta bị khổ tâm vì tâm chúng ta chưa tu đúng mức hay chúng ta qúa nhạy cảm với đối với vấn đề đó.”

Hai cái đó cũng là nhân quả, nhân quả đó khác nhau. Do vậy khi Đức Phật nói về vô minh là nói về một cái nhìn không có xuyên qua thực trạng đời sống. Không xuyên qua thực trạng đời sống là con người chỉ nghĩ có ngoài mà không có trong, là con người nhìn vào qủa mà không nhìn vào nhân, con người chỉ nhìn vào hiện tại mà không nhìn về quá khứ. Khi không nhìn tường tận như vậy, nên con người khổ. 

-Thế nào là con người nhìn ở ngoài, không nhìn ở trong? Một người có chuyện buồn phiền thì một lúc có cả hai yếu tố, yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong nữa. Ở bên ngoài người ta nói một câu nói mình buồn lòng. Nhưng tùy theo cách nhìn của mình về câu nói đó có thể làm cho mình buồn lòng hoặc bình thản. Tức là có yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong, chứ không đổ lỗi cho một yếu tố được. 

Chúng ta sống ở Việt Nam thường than thân trách phận là không có tự do. Nhưng khi chúng ta qua bên Tây bên Mỹ có tự do, thì chúng ta có hết than trách không? Cũng còn chứ. Bởi vì sao? Vì khổ đau không những có bên ngoài mà còn có bên trong mình nữa. Đức Phật không phủ nhận những yếu tố bên ngoài. Ngài nói “có” Ngài nói trời nóng trời lạnh bên ngoài làm cho mình khổ, mình có nhận điều đó. Ngài nói người ta đối xử mình tệ bạc mình khổ, có nhận điều đó. Nhưng Ngài nói đừng đổ hết lỗi vào chuyện đó. Bởi vì sao? Thí dụ như khi đi mình lở đá vào cái ghế, mình có thể nói rằng ai để ghế bừa bải làm cho mình đá phải nhưng mình cũng có trách nhiệm là tại mình không nhìn cẩn thận chứ không thể đổ thừa cái ghế. Thấy yếu tố bên ngoài phải thấy cả yếu tố bên trong nữa. Nhưng chúng ta chỉ thấy một yếu tố, nên Đức Phật gọi là "vô minh."

Thấy yếu tố hiện tại phải thấy yếu tố quá khứ. Yếu tố hiện tại là gì? 

Có nhiều khi chúng ta gặp chuyện bất hạnh gì đó, nhưng tại sao nhiều người cũng gặp trong hoàn cảnh đó mà họ tránh được, chúng ta gặp trong hoàn cảnh đó lại không tránh được như họ. Không tránh được là bởi vì nó có liên quan đến quá khứ. 

Lấy ví dụ chúng ta sang Hoa-Kỳ, bên đây người da trắng kỳ thị chúng ta. Khi chúng ta bị kỳ thị, chúng ta chỉ nhìn một yếu tố thôi, những người có tâm hồn kỳ thị là những người xấu, do họ xấu họ mới đối xử chúng ta tệ như vậy. Tuy nhiên chúng ta cũng phải để ý đến những yếu tố khác, ví dụ như là do chúng ta không khéo cư xử, nên họ không có thiện cảm với mình. Do không có thiện cảm nên người ta kỳ thị. Cũng dễ hiểu thôi. Không phải gặp ai là người Việt Nam, ai là người Tàu, họ cũng ghét hết. Cái này chi phối cái kia, cái kia chi phối cái nọ. 

Hoặc giả chúng ta ngồi tại đây, tại ngôi chùa này, không phải vì nghe một thời pháp mà tất cả quý vị đều được an lạc, có nhiều người trong quá khứ họ đã từng bỏ công bỏ sức xây dựng ngôi chùa để ngày hôm nay chúng ta có nơi ngồi nghe pháp được tiện nghi và trang nghiêm như vầy. Những người đó họ cũng có đóng góp vào không khí hiện tại, nhưng có thể chúng ta không thấy. Hay ví dụ như chúng ta sang bên Mỹ, bên Pháp, sở thuế họ gọi chúng ta lên họ làm khó dễ. Chúng ta nói  “ở Việt Nam như vậy mà sướng làm bao nhiêu bỏ túi bấy nhiêu. Qua bên này phải đóng thuế.” Chúng ta quên rằng lúc chúng ta lái xe trên xa lộ, đường xá tốt như vậy, ai bỏ tiền xây dựng đường xá cho chúng ta đi. Rồi có những dịch vụ này những dịch vụ khác, ai lấy tiền đâu lo cho chúng ta. Chúng ta chỉ nghĩ đến một chuyện thôi. Đức Phật nói, vô minh tạo ra nhiều chuyện phiền phức. Phiền phức hơn chúng ta nghĩ nhiều lắm. 

Vô minh là thấy được nhân mà không thấy quả, thấy quả không thấy được  nhân. Trong cuốn “ Bài học ngàn vàng” có một câu nói ảnh hưởng đến đời sống của rất nhiều người, câu nói đã được cất vào trong một hộp rất trang trọng, câu nói đơn giản như vầy, “ Phàm khi làm chuyện gì hãy nghĩ đến hậu quả của nó”. Một câu nói đơn giản như vậy, ảnh hưởng đến nhiều người. Bởi vì khi làm chuyện gì chúng ta không nghĩ đến cái quả của nó, nên hành động của chúng ta sai lạc. Chính vì không hiểu quá khứ, hiện tại , không hiểu vị lai nên chúng ta hành động một cách sai lạc.

 Chúng tôi đưa ra nhiều thí dụ như vậy, để chúng ta thấy một điều rằng, sự lãnh hội của chúng ta, đầu óc của chúng ta có thể đi sâu vào vấn đề, đi sâu đến mức nào thì nó thay đổi đời sống cuả chúng ta đến mức đó. Đức Phật xác nhận điều đó rất nhiều lần khi Ngài nói rằng, “Vô minh duyên cho hành”.

Chúng ta làm rất nhiều công việc trong đời sống, chỉ đơn giản một điều là bởi vì chúng ta không biết phải làm gì, chúng ta không biết nhân và không biết quả của nó. Ngày nay tại các quốc gia chúng ta đang sống, chúng ta thường có cái nhìn rất lệch lạc là hễ người nào học xong Tú tài thì tương đôi có kiến thức đủ để sống, người nào đi vào đời có cái nghề trong tay là đủ để sống, người nào có thể tiếp xúc được với người này tiếp xúc với người kia có đủ kiến thức để sống. Kiến thức đó theo Đức Phật, chỉ là kiến thức thôi. Nhưng nếu là một người tu thiền, ngồi suy niệm, thì có muôn ngàn kiến thức trong đời sống mà chúng ta chưa đạt đến mức Đức Phật ngài gọi là thấu triệt. Thấu triệt là cái nhìn xuyên qua. Do không có cái nhìn xuyên qua nên chúng ta khổ. 

Một người Ba-Lan, anh bây giờ đang định cư tại Chicago, viết về đời sống của anh, một công nhân trong một hãng tại Ba Lan. Anh là một người  có tay nghề cao. Anh nói rằng chức vụ và lương bổng của anh trong hãng không phải dựa theo cái tài, mà dựa theo lý lịch. Cha mẹ của mình có nằm trong Đảng Cộng Sản hay không? Mình có tham gia sinh hoạt Đảng hay không? Đó là yếu tố thứ nhất để được lương cao, yếu tố thứ hai là mình có chiều lòng những cấp trên hay không? Yêú tố thứ ba là mình có nhập cuộc với các người khác để làm việc gian trá, lấy của công hay thâm lạm công quỹ, mình có toa rập được với những người đó hay không? Nếu mình nhập bọn được, họ sẽ cho mình chức vụ quan trọng. Do vậy suốt cuộc đời làm công nhân anh có một điều mơ ước, “ Mơ ước một ngày nào đó anh được làm trong một hãng người ta biết được thực tài của anh, khi đó anh được đặt vào công việc tương ứng với khả năng của anh, như vậy anh có dịp phụng sự cho đất nước, cho dân tộc, cho xã hội”. Cuộc đời gần 20 năm làm việc tại Ba Lan, anh không có được cơ hội đó. May mắn về sau này anh được di dân sang Hoa- Kỳ, anh đã viết lại rất nhiều cảm giác của anh làm thế nào để trở thành một công nhân làm việc tương xứng với khả năng của mình, và niềm vui lớn lao của anh như thế nào. Khi đọc tập sách này chúng ta mới thấy một câu chuyện quan trọng, không phải ở đời sống của anh mà là ở đời sống của vợ anh. Khi vợ anh ở tại Ba- lan đã nói với anh như vầy, “Ước gì ngày nào đó, có một người hiểu được tài anh, trọng anh, cho anh một việc làm xứng đáng để gia đình mình được êm ấm”

Nhưng khi đến Hoa -Kỳ, anh được tất cả những điều mơ ước đó. Người vợ anh lúc bấy giờ không cảm thấy thoả mãn với chuyện đó nói rằng, “ Chúng ta đã bỏ quê hương bỏ xứ sở, từ bên kia qua đây để làm một người công nhân sao?” Anh rất là chán ngán, anh nghĩ rằng anh qua đây có một sở làm, một nơi biết được khả năng của anh. Đáng lẽ anh hoan hỷ lắm, nhưng anh lại không vui vẻ với chuyện đó. 

Điều đó cho chúng ta thấy những điểm như vầy, rất là khó khăn để chúng ta hiểu sự hiểu biết ảnh hưởng đời sống mình ra sao. Nếu chúng ta hiểu biết nhiều hơn, những hiểu biết trong đạo Phật hay hiểu biết về Phật-Pháp thì có thay đổi được. Chúng ta biết bằng lòng với hiện tại, chúng ta sẽ giảm bớt những cái Đức Phật gọi là phóng dật. 

Phóng dật có nghĩa là chúng ta không được an trụ một chỗ. Phóng dật có nghĩa chúng ta chạy theo cảnh này chạy theo cảnh kia. Có một chữ rất khó dịch, trong kinh tạng rất khó nói là diễn tả một tình trạng mà chúng tôi vừa nói với quý vị là phóng dật, tình trạng mà chúng ta không bao giờ ngồi yên được. Chúng ta hãy nhìn những đứa trẻ. Quý vị biểu những đứa trẻ ngồi ngay ngắn để học, một cách an lạc thì nó không làm được. Nó buông cái này chụp cái kia, buông cái kia chụp cái nọ. Khi nhìn thấy như vậy chúng ta cứ tưởng những đứa trẻ rất vui, nhưng thật sự nó không phải như vậy. Nó dễ chán chứ không phải rất vui. Tại vì nó vui thì khi có đồ chơi nó sẽ chơi món đồ ấy hoài. Nhưng vì nó mau chán nên chơi một lúc rồi nó không biết phải làm cái gì nữa với món đồ chơi đó, chơi một chiếc xe cứ đẩy tới đẩy lui như vậy, nên đòi cha đòi mẹ mua thứ khác cho nó. Trong lúc chúng ta lớn rồi, có nhiều người có đời sống tinh thần sung mãn, họ chỉ cần trồng một cái cây thôi, nhưng họ vui thích với cái cây đó. Họ không cần trong nhà phải mua hết món này đến món kia. Quý vị để ý tất cả những đứa nhỏ, không đứa nào quý vị mua cho nó một chiếc xe hay một con búp bê mà nó chơi hoài. Điều đó không có nghĩa là nó yêu đời mà nó dễ chán đời. Dễ chán đời là nó không thoả mãn được chuyện đó.

Đức Phật, Ngài dạy: “Đời sống của chúng ta từ nội tâm của mình không thoả mãn được, từ nội tâm của mình rất dễ chán” 

Do vậy chúng ta tiếp tục tầm cầu và tiếp tục hành động. Tiếp tục đi từ thế giới này sang thế giới khác, từ việc làm này sang việc làm khác. Hằng ngày nếu chúng ta ngồi chúng ta kiểm điểm lại một trăm công việc chúng ta tự làm ra. Chúng ta muốn làm, để làm gì? Để cho chúng ta có niềm vui nhỏ, để thoả mãn một điều gì đó, để tạo cho chúng ta một sự bằng lòng nào đó. Như trường hợp như vầy, khi nào quý vị hoan hỷ đi chùa nghe Pháp, hay lúc nào nói chuyện với người bạn tri kỷ, hoặc lúc nào trong gia đình có chuyện gì vui, quý vị không thích ra đường nhiều, không thích đi mua sắm nhiều, không thích đi lang thang nhiều. Vì sao? Vì ở nhà vui quá rồi không cần phải đi ra đường nữa. Quý vị đồng ý không? Hay lúc nào đời sống tinh thần chúng ta sung mãn rồi chúng ta không cần phải có thêm thứ này mua sắm thứ kia nữa. Tại sao bây giờ trong xã hội, chúng ta sống tại thành phố, chúng ta hay mua đồ đạc nhiều như vậy, tại vì nhà chật quá và ở nhà chỉ chừng đó công việc thôi, không có gì vui hết, con người phải đi tìm thứ này thứ khác. Cái mà đi tìm những thứ làm cho chúng ta hài lòng, những cảm giác hài lòng đó, nói lên một điều chúng ta rất thiếu thốn. Chúng ta không biết phải làm điều gì. Bởi vì chúng ta thiếu thốn không biết mình phải làm gì nên chúng ta làm rất nhiều việc. Đó là ý nghĩa "vô minh duyên cho hành". Khi chúng ta không biết gì hết chúng ta làm rất nhiều. Những hành động của chúng ta đến từ cái không thấy và không biết. Chúng tôi biết điều này là điều rất khó hiểu, do vậy chúng tôi hơi dài dòng một chút.

Tiếp theo chúng ta sẽ nói về chữ Hành

Chữ hành tương đối hơi khó hiểu trong từ ngữ Phật học. “Các hành đều vô thường” Chữ hành đó được dùng rất rộng rãi trong kinh điển đặc biệt trong kinh tạng Pali, chữ hành có nghĩa là tạo tác. Khi bị tạo hay được tạo cũng gọi là hành.

-Ví dụ quý vị cầm một cuốn sách, cuốn sách này sỡ dĩ nó có như vậy là bởi vì có người dịch ra nó, có người bỏ tiền in ra nó, có người thợ in nó, và có người muốn có nó. Do nhiều yếu tố đó chúng ta có được cuốn sách này. Như vậy hành là yếu tố tập hợp bởi nhiều thứ tạo nên. Chữ Hành có nghĩa là tạo nên. 

-Chữ hành Đức Phật, Ngài dạy trong “vô minh duyên cho hành” gồm cả hai phần, tạo tác là nhân gây ra nghiệp tạo, cái gì được tạo nên, được hình thành đều là Hành. 

-“Hành động” cái Hành đó có khi nó là thiện có khi nó là không thiện. Có khi vừa không thiện và không ác. Đều gọi là hành hết.

Quý vị hỏi:  nếu hành là thiện, hành là bất thiện thì cái hành nào là thiện và cái hành nào là bất thiện?.
 Câu hỏi này mới nghe qua quý vị Phật tử nói rằng một câu hỏi rất dễ trả lời. Đối với trì giới là thiện, đối với sát sanh trộm cắp là bất thiện. Tuy nhiên đây chỉ là ý niệm rất phôi thai, Đức Phật Ngài dẫn dụ cho chúng ta hiểu thôi. Bởi vì trong đời có những chuyện chúng ta không biết đó là thiện hay bất thiện. Ví dụ một vị tổng thống, ông làm một quyết định cắt giảm chi tiêu của quốc gia để bớt thâm thủng ngân sách. Đó là điều đúng, nhưng vì để cắt giảm chi tiêu, ông phải bớt đi tiền trợ cấp cho một số người nghèo. Chúng ta không biết chuyện đó là thiện hay chuyện đó là bất thiện. Như trong gia đình, quý vị thấy một người nào khổ mình cho tiền. Ví dụ quý vị gửi tiền về Việt Nam nhiều quá, rồi ở Việt Nam họ đâm ra hư, chúng ta không biết chuyện đó là thiện hay bất thiện.

 Vấn đề nhức đầu ở đây là làm sao vẽ được lằn ranh giữa thiện và bất thiện. Thứ nhất chúng ta nhắc lại câu nói hồi nãy là tất cả những hành động thiện và bất thiện đều là do chúng ta không biết làm cái gì. Chúng ta phải nhìn nhận điều đó. Bởi vì chúng ta không biết phải làm gì nên chúng ta cố gắng để có một chút suy tư mặc dầu không chắc hẳn 100% nhưng tối thiểu chúng ta tin được là 70, 80% điều đó đúng hoặc chúng ta có thể đoán được là điều đó không đúng Mặc dầu đó chỉ là sự suy đoán thôi, chúng ta không đoan chắc như vậy. Chính sự suy đoán này dẫn chúng ta đến hành động.

Ở đây chúng ta nên để ý ba giai đoạn:

1 - Giai đoạn thứ nhất chúng ta không biết chúng ta phải làm gì. 
2 - Giai đoạn thứ nhì chúng ta cố gắng suy nghiệm để chúng ta phán đoán chúng ta nên làm cái gì.
3 - Giai đoạn thứ ba chúng ta bắt đầu hành động.

Từ chỗ phán đoán suy nghĩ, chỗ lựa chọn đến chỗ hành động, đôi khi rất nhanh và đôi khi rất chậm. Nó chậm ví dụ, như quý vị muốn nói câu gì đó cho anh A anh B biết, nhưng quý vị phân vân không biết nói ra anh đó có buồn hay không? Đó là sự lựa chọn rất chậm. Nhưng có những lựa chọn rất nhanh. Giả sử như có người nào đó mình không có cảm tình, họ làm chuyện gì đó mình nói đại một câu, ảnh buồn hay vui kệ ảnh. Chúng ta nói không cần suy nghĩ, chúng ta lựa chọn rất nhanh, nhanh đến nỗi cơ hồ hành động và lời nói ( lựa chọn và hành động )là một chứ không phải là hai. Thật ra nó có hai giai đoạn. Tại sao chúng tôi nói đến hai giai đoạn này là bởi vì sự lựa chọn đó gọi là tác ý. Cái tác ý rất quan trọng. Tác ý có khi nó nhanh có khi nó chậm. Nhiều khi nó mất ba hay bốn ngày để chúng ta quyết định một chuyện gì đó và nhiều khi nó chỉ là một mảy may tích tắc chúng ta có thể lựa chọn được, cái tác ý là cái nguyên nhân sâu xa đó, tiếng Việt chúng ta có một từ tương đối dễ hiểu nhất đó là chủ tâm. Chủ tâm tức là chủ ý làm một việc gì, chính chủ tâm dẫn đến hành động. Chủ tâm là cái mà Đức Phật gọi là nghiệp.

Cái gì chúng ta dựa trên chủ tâm đó. Có hai yếu tố chúng ta dẫn đến chủ tâm. 

1 -Một là chúng ta không biết gì hết gọi là vô minh. Khi chúng ta muốn làm gì chúng ta có sự chủ ý cái gì nên làm, cái gì không nên làm. 

2 -Bên cạnh cái không biết đó còn có cái khác, hoặc là cố gắng đoán, hoặc là đoán mò hoặc mượn kiến thức của người nào đó như là kiến thức của kinh điển, kiến thức của cha mẹ để lại, hay là kiến thức của chúng ta để lựa chọn, chúng ta nên làm hay không nên làm. Nhưng ngoài sự lựa chọn đó, sự chủ tâm có sự suy nghĩ  hoặc chủ tâm không có sự suy nghĩ, đó là do tánh của mình. Tánh mình hay sân, tánh mình hay tham. Dựa vào điều đó chúng ta chỉ lựa chọn thôi. Trong tánh đó nó cũng có sự chủ tâm. Ví dụ như một con cọp vốn có bản năng giết con nai hay bất kỳ sinh vật nào yếu đuối hơn nó để ăn thịt. Nhiều người hỏi rằng như vậy nó có nghiệp hay không? Tại vì nếu nó không ăn nó sẽ chết, và nó sanh ra trong đời với cái tánh giết để ăn, đó là bản năng của nó rồi, không gọi là chủ trương của nó được. Con người chúng ta không giết vật để ăn thì có thể trồng rau trồng cỏ để ăn. Nhưng những con vật ăn thịt sống như gấu, cọp, beo tự nhiên nó phải giết con này con kia để ăn thôi.

- "Như vậy nó có chủ tâm để giết không?" 

Chúng tôi trước khi trả lời câu hỏi này, chúng tôi muốn hỏi quý vị, 

-“Trong trưòng hợp đó quý vị nghĩ rằng có quả hay không?

-“Nếu quý vị là một thẩm phán để phán xử, quý vị có buộc tội con vật hay không?” 

Một số vị đồng ý là có quả. 

-“Như vậy sự phán đoán buộc tội và cái quả, hai cái đó có đi liền với nhau hay không?” Chúng ta không kết tội con cọp nhưng chúng ta nói con cọp có quả của nó. Như vậy trong tự nhiên của đời sống, nó có hành động và phản ứng cuả hành động thôi chứ không cần phải ai phán đoán.

Sự phán đoán dựa trên trí tuệ của chúng ta, nó khác với phản ứng tự nhiên. Ví dụ chúng ta chọi trái banh vô tường, dầu chúng ta có ra lệnh cho nó là dội ra ít hay dội ra nhiều, đó là chuyện chúng ta ra lệnh, là độ mạnh chúng ta ném vào sẽ tạo ra phản ứng, đó là phản ứng tự nhiên thôi. Ngài Ajanh Chah nói rằng cây mà ta gieo xuống, chúng ta vun phân tưới nước thì tự nó sẽ ra hoa ra trái, dầu chúng ta muốn thế này cũng không được, muốn thế kia cũng không được, tự nó nó sẽ có phản ứng. 

Chúng tôi đưa vấn đề đi vào chi tiết làm quý vị hơi khó xử một chút vì đây là mấu chốt, cái mà chúng ta gọi là hành hay cái chúng ta gọi là nghiệp.

Người ta hay cãi với nhau về một điểm, cái gì có sự tác ý tức là chủ tâm và có những cái có tác ý thì có quả. Có nhiều người nói rằng, sự vô ý sẽ có quả nặng hơn như trường hợp nói theo lý thông thường chúng ta biết rằng sát sanh là xấu mà chúng ta vẫn sát sanh như vậy tội nặng hơn mình không biết. Quý vị có nghe người ta nói như vậy không? Trường hợp quý vị sống ở đây quý vị phạm luật mà quý vị không biết, người ta nói rằng nhẹ tội hơn. Nhưng có người khác nói như vầy, họ nói rằng khi quý vị thò tay vào trong lửa, nếu quý vị không biết lửa là nóng thì có khi mang hậu quả nặng hơn quý vị biết, bởi vì biết quý vị thò tay vào lửa là rút ra liền. Như vậy quý vị nghĩ, “có tác ý và không tác ý cái nào quả nặng và cái nào quả nhẹ?. Cái tác ý khi quý vị thò tay vào trong lửa, phỏng rất nặng vì mình không biết lửa nóng thì vô ý đó là vô ý của vô minh. Vô minh là cái mà mình không biết. Nhưng khi mình nói một lời nói vô tình làm người khác buồn, đó là không tác ý, là không tác ý của hành. Cái không biết của vô minh nó đưa chúng ta đến khổ rất nặng nề, cái nghiệp rất nặng. Cái không có tác ý của hành thì nghiệp nó nhẹ. 

Khi chúng ta nói rằng vô minh là không biết, thì nó đựơc ví dụ giống như một người lao vào trong lửa vì không biết lửa nóng. Tuy nhiên chúng ta nói rằng trên đời này, có nhiều người họ biết chuyện đó là nguy hiểm, do vậy họ cẩn thận hơn . 

Trong lý nhân duyên tương đối hơi rắc rối một chút. Điều này nếu chúng ta không đi sâu vào chi tiết, chúng ta rất khó hiểu. Lát nữa chúng ta nói hành duyên cho thức như thế nào.

Bây giờ chúng ta nói đến nghiệp

Chúng tôi dành một chút thời gian để nói đến nghiệp, vì hành ở đây chính là nghiệp. Nói về vi tế thì đôi khi chúng ta có suy nghĩ và suy nghĩ rất lâu, đôi khi chúng ta suy nghĩ nhanh suy nghĩ nhanh lắm. Như trên quyển sách  “VÒNG LUÂN HỒI”. Nếu con em mình hoặc mình mới học tiếng Việt thôi, muốn đọc ba chữ “VÒNG LUÂN HỒI” thì phải ráp vần, chữ Vchữ O chữ N và chữ G, phải ráp từng chữ từng chữ.Còn đối với chúng ta, chúng ta nói “VÒNG LUÂN HỒI” rất nhanh. Nhưng không có nghĩa là vì vậy mà chúng ta bỏ qua chữ. Nếu không có chữ N và chữ G thì chúng ta đọc nó là chữ VÒ chứ không phải chữ VÒNG. 

Như vậy mặc dầu người ta hỏi, “ Anh có đánh vần không?”

Chúng ta nói, “ Tôi đâu có đánh vần, tôi thấy và đọc liền thôi” 

Thật ra chúng ta có đánh vần, và đánh vần rất nhanh.

Nhiều khi nghiệp đó mình làm, mình nói mình không có suy nghĩ, mình có suy nghĩ chứ không phải là không có quý vị. Suy nghĩ nhanh vô cùng. Ví dụ như hủ cà-phê đang để trước mặt chúng tôi đây, nếu ta nhìn thấy nó chúng ta mới mua được, nhưng khi chúng ta mua liền một lúc và mua nhanh như vậy đó, không có nghĩa là chúng ta không có suy tính đâu. Chúng ta đã từng uống, chúng ta nhớ, chúng ta biết nó ngon nên chúng ta mua. Vì chúng ta tính rất nhanh, nên chúng ta tửơng chúng ta không có suy tính. Vì vậy có nhiều người cho rằng trong hành động của mình không có suy tư tức là không có tác ý, không phải như vậy. Nó có tác ý, nhiều khi tác ý rất nhanh, mà chúng ta không biết được. Lúc nãy chúng tôi có trình bày với quý vị Phật tử về sự lựa chọn. Cũng thời việc đó chúng ta có phản ứng tức là chúng ta có lựa chọn ngay lập tức. Lựa chọn phải nói như thế nào và trong sự lựa chọn đó chúng ta có khó xử không. Nên người Phật tử trong đời sống của mình hay làm những việc như bố thí trì giới tham thiền chẳng hạn là để chúng ta gieo vào đầu óc mình những mầm mống, những mầm mống đó đến khi chúng ta ra ngoài chúng ta hành động, mặc dầu chúng ta không suy nghĩ nhưng nó là một phần đời sống của mình. Bây giờ bình thường chúng ta không học Phật Pháp không bố thí, không trì gới không làm phước, đụng chuyện hỏi, “ Chị có nên làm hay không nên làm?". v.v...

Trong bài học hôm nay chúng tôi trình bày vô minh duyên cho hành. Khi nói đến hành chúng ta cố gắng phân biệt hai điều. Bởi vì hành là chủ trương hay chủ tâm hành động và chúng ta có nói về sự chủ quan dựa trên sự không biết tức là sự chủ tâm dựa trên vô minh. Vì không biết không thấy nên chúng ta hành động. Đó là vô minh duyên cho hành.

Và chúng ta cũng nói đến hình thức khác là hình thức con ngươi hành động theo bản năng phản ứng tự nhiên, điều đó cũng là một phần khi chúng ta đề cập đến hành. Tuy nhiên dầu một việc làm mà chúng ta có chủ tâm hay không có chủ tâm là đều có tác ý cả.

Nói một cách rõ hơn tất cả những hành động dầu vô tình hay cố ý của chúng ta đều có tác ý. Tác ý như khi nãy chúng tôi đề cập đến là vì không biết nên chúng ta hành động. Nhiều khi chúng ta hành động bởi vì chúng ta không biết phải làm gì. Đôi khi trong đời sống này con người có rất nhiều nghiệp thiện và có rất nhiều nghiệp ác. 

Nghiệp thiện nghiệp ác đó được ghi nhận giống như một cái cây. Trong suốt đời sống của một cái cây, từ lúc đâm chồi nẩy lộc cho đến khi cây đó chết đi thì thường những cây đó tạo ra rất nhiều quả, rất nhiều trái. Quả và trái đó đều có tiềm năng để sanh quả trên cây khác. 

Cũng vậy, con người chúng ta lớn lên trong đời sống, mỗi một hành động, mỗi một ngày, mỗi một giờ có vô số nghiệp chúng ta tạo ra, đời sống của chúng ta tạo ra rất nhiều nghiệp. Nếu nói về phương diện vay- trả, chúng ta là những người vay nhiều hơn trả và không biết bao giờ chúng ta mới trả hết những gì mình đã vay. Trong kiếp sống này chúng ta chỉ có một mạng sống mà thôi. Tuy vậy nhiều khi chúng ta giết vô số sinh vật. Quý vị nhớ khi chúng ta còn nhỏ, chưa biết đạo, chúng ta giết kiến, giết cá, giết gà, giết con này con kia và nếu nói một mạng đền một mạng thì không bao giờ có đủ để đền hết những gì chúng ta làm. 

Do vậy trong cuộc sống này có vô số nghiệp mà mình đã tạo, nhiều người chấp tay phát nguyện trước bàn Phật,

Bây giờ con khổ quá. Do vậy trong kiếp này cho con trả hết nghiệp của mình.” 

Thưa quý vị, chúng ta không bao giờ trả hết nghiệp của chúng ta hết, vì đời trước cũng vậy chúng ta cũng tạo vô số nghiệp, và đời trước nữa cũng tạo vô số nghiệp, chỉ có cách là chúng ta ráng tu để chứng đắc Niết-bàn, chấm dứt sanh tử, lúc đó chúng ta không còn phải trả nghiệp của mình nữa. Chứ không khi nào chúng ta trả hết nghiệp được. Khi nãy chúng tôi có nói với quý vị như một cây xoài mặc dầu nó chỉ có một cây xoài thôi nhưng nó tạo ra vô số trái xoài và những trái xoài đó nó có nhiều khả năng để tạo ra nhiều cây xoài khác nữa. Có một sự khác biệt giữa loài cây và loài vật là một cây có thể sanh ra nhiều cây được nhưng con người thì một người tạo ra nhiều nghiệp nhưng cái nghiệp đó không tạo ra nhiều người để trả hết. Như trường hợp một cây xoài có thể sanh ra năm bảy cây hoặc vài ba trăm cây xoài khác, nếu quý vị lấy hột xoài nhân ra. Còn con người chúng ta, đời này qua đời kia mặc dầu chúng ta tạo ra rất nhiều nghiệp nhưng không có nghĩa là đời sau chúng ta sanh lên là có nhiều thân hơn, một thân do quả thiện, một thân do quả bất thiện. Thân bất thiện chịu quả khổ, còn thân do quả thiện hưởng quả vui. Không có như vậy, chúng ta không thể phân theo như vậy. 

Câu hỏi được đặt ra, “Tại sao loài cây loài thực vật có thể phân ra nhiều cây, mà chúng sanh  là hữu tình thì chỉ có một thôi?” 

Và câu trả lời, “Đó là do ngã chấp”. 

Cái ngã chấp là cái gì khiến cho đời sống chúng ta chỉ có một mà không có nhiều được./.

Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 2 - Hành duyên Thức

Thập Nhị Nhân Duyên 
- Bài 2 - Hành Duyên Thức 


TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học bên Thụy Sĩ

Minh Hạnh chuyển biên và biên tập

Câu hỏi được đặt ra, “Tại sao loài cây loài thực vật có thể phân ra nhiều cây, mà chúng sanh là hữu tình thì chỉ có một thôi?”

Và câu trả lời, “Đó là do ngã chấp”. Cái ngã chấp là cái gì khiến cho đời sống chúng ta chỉ có một mà không có nhiều được.

Thí dụ ở bên này cầu có rất nhiều người phải đi qua cầu phía bên kia và cái cầu đó mỗi lần chỉ đi được một người, mặc dầu có rất nhiều người muốn qua cầu, họ đứng lộn xộn nhưng khi qua cầu họ phải xắp hàng một để đi.

 Tại sao có hàng một? với cây cầu phải xếp hàng một để dụ cho ngã chấp của chúng ta, mặc dầu chúng ta có khi làm thiện có khi làm ác nhưng vì ngã tánh của chúng ta nên đời sống của chúng ta giống như đi qua cầu đi một lần chỉ được một người thôi.

 Do ngã chấp như vậy nên kiếp tới của chúng ta thì một lần chỉ được một việc sanh ra mà thôi, việc khởi đầu đó gọi là kiếp sanh thức hay là nghiệp đi tục sinh. 

Có nghĩa là như vầy, nói theo một cách khác thì ngày hôm nay qúi vị đến chùa để dự một khoá tu học và việc quí vị tu học ở đây có thể sanh ra quả về sau là một người rất có trí tuệ bởi vì là một người học Phật Pháp, nhưng rồi chiều nay hay tối nay chúng ta lên đường, chúng ta có chuyện gì gây gỗ với người khác, chúng ta nói người khác nặng nề hay chúng ta về chửi cha mắng mẹ thì những nghiệp đó nó có tiềm lực, nó có đủ hạt giống để về sau chúng ta sanh làm người gặp quả khổ vì việc làm lúc trước của mình. 

Rồi qúi vị nhớ năm, bảy năm trước đây chúng ta cũng đã từng dâng y, chúng ta cũng đã từng làm việc này việc khác, như vậy có nhiều nghiệp có khả năng để dẫn chúng ta đời sau đi tái sanh. 

Tuy nhiên không phải tất cả các nghiệp đó đều trổ quả trong kiếp kế tiếp của chúng ta (gọi là sanh báo nghiệp). Có ba trường hợp và ba trường hợp đó được biết tới qua cái cầu bắt qua sông, cầu đó gọi là những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Giây phút cuối cùng đó là giây phút quyết định mà kiếp sống chúng ta phải làm như thế nào. Đức Phật Ngài có ví dụ như là một đàn bò nhốt trong chuồng, khi mở cửa ra thì con bò nào gần cửa nhất thì con bò đó sẽ đi ra, không phải là con bò mạnh hay con bò yếu mà là con bò nằm ở phía cửa thì sẽ đi ra. Thì trọn cả đời sống của chúng ta, tất cả những nghiệp nào chúng ta làm đều quyết định bởi giây phút cuối cùng, tức là giây phút chúng ta sắp chết. Giây phút cuối cùng đó nếu là ý niệm thiện thì chúng ta sẽ sanh vào cảnh giới an lạc và nếu là tâm niệm bất thiện thì chúng ta sẽ sanh vào cảnh giới khổ đau. 

Bây giờ qúi vị hỏi rằng: "Nếu như vậy thì quá dễ, cứ suốt cuộc đời chúng ta làm ác rồi giờ phút cuối cùng thì chúng ta hãy giữ một ý niệm rất là thiện thì như vậy chúng ta sẽ siêu sanh." Nói thì dễ thưa qúi vị, nhưng có hai điều không dễ. 

- Điều thứ nhất là người càng gần cái chết thì người đó càng thành thực với chính bản thân của mình.

- Điều thứ hai là khó có người nào suốt cuộc đời họ làm ác mà lúc chết họ không nhớ đến chuyện ác. Nói như vậy chẳng khác gì nói là chúng ta cứ đi chơi cho đã rồi giờ phút cuối cùng đi thi chắc cũng đậu, thật ra cứ chơi hoài thì cũng khó mà học giỏi, khó mà điểm cao, mặc dầu có những người rất là xuất sắc, có những trường hợp rất là ngoại lệ nhưng không phải lúc nào cũng học tài thi mạng hết.

Như vậy giờ phút cuối cùng bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố: 

1) Yếu tố thứ nhất là ảnh hưởng tới những gì chúng ta gọi là thói quen, thói quen gọi là thường nghiệp, quán nghiệp.

2) Yếu tố thứ hai là tác ý.

3) Yếu tố thứ ba là những hành nghiệp do thân, khẩu, ý đều có ảnh hưởng đến giòng tâm thức và chính giòng tâm thức đó ảnh hưởng đến kiếp sau của mình


1) Yếu tố thứ nhất là ảnh hưởng tới những gì chúng ta gọi là thói quen, thói quen gọi là thường nghiệp, quán nghiệp.

Thí dụ qúi vị đi dạy học hay quí vị làm nghề kế toán hay qúi vị làm nghề computer, hay hằng ngày qúi vị đi chùa lạy Phật v.v... tất cả đó đều tạo cho chúng ta một thói quen, thói quen đó trong những giờ phút lâm chung là cái gì mà chúng ta nhớ đến, hoặc giả một yếu tố khác chi phối trong đời sống khi chúng ta làm việc gì rất nặng mà đạo Phật gọi là trọng nghiệp. 

Nói về việc thiện như tu thiền, hay có một lần nào đó qúi vị bố thí làm lễ dâng y hay bố thí cho người nghèo mà rất cảm động chẳng hạn, thì đó là thiện nghiệp. Và bỗng dưng do duyên nghiệp nào đó trong giờ phút cuối cùng cận tử, tự nhiên họ gặp một vị Sư hay họ gặp Đức Phật hay một người bạn tụng một thời kinh chẳng hạn, thì dầu rằng cả đời của người đó không bao giờ biết Phật Pháp, hay cả đời người đó làm ác, nhưng vì cái duyên ở quá khứ, duyên may nào đó, và giờ phút cuối cùng người đó lại gặp được hoàn cảnh như vầy thì họ cũng có thể giờ chót họ ra đi với một tâm niệm rất an nhàn. 

Ngược lại như vua A Dục suốt cuộc đời làm phước bố thí nhưng cuối cùng theo di chúc nhà vua muốn làm phước nhiều hơn nữa thì các quan thấy nhà vua bịnh rồi nên không làm theo ý nhà vua, và nhà vua chết đi trong sự uất ức rồi tái sanh thành con rắn, nhưng cái nghiệp đó chỉ ngắn trong bảy ngày thôi, tuy nhiên nó có một ảnh hưởng rất lớn đó là ở trong giây phút cuối cùng.

 Có thể suốt cuộc đời chúng ta làm thiện mà giây phút cuối cùng chúng ta gặp chướng duyên nào đó thì tâm niệm bất thiện vẫn dẫn chúng ta đi tái sanh. Tâm niệm về một người suốt cuộc đời họ làm ác nhưng cuối cùng họ được cái duyên may nào đó, họ được tâm niệm thanh thản trong lòng hay được ai nói lời khai thị thì họ cũng có thể có được ý niệm rất tốt đẹp.

 Nói có đi thì cũng phải nói có lại là tất cả những điều đó giây phút cuối cùng quyết định, nhưng đời sống hàng ngày của chúng ta nó cũng ảnh hưởng đến giờ phút sau cùng, chứ không có nghĩa là như người ta nói nếu như vậy thì mình có quyền sống sao đó rồi tới giờ phút cuối cùng mình chỉ cần có ý niệm tốt là đủ. 

Chúng tôi đã đi tụng kinh và đã tiếp xúc với rất nhiều người,  ở trong đời đi tu có những cái rất may mắn đó là được tiếp xúc với rất nhiều Phật tử trong những giờ phút sau cùng của họ, có những người khi sắp chết tay họ còn nắm tay chúng tôi, có nhiều khi chúng tôi vào đang tụng kinh như vậy thì họ ngất đi rồi chết, có những lúc họ đang hấp hối, nước mắt họ dàn dụa ra rồi họ nghẻo đầu chết. Có lẽ qúi vị rất ít khi gặp trường hợp đó tại vì trừ những người thân ra thôi còn ở trong đời ít có khi nào qúi vị được gần người bịnh lúc họ sắp lâm chung. Nhưng chúng tôi vì đi xuất gia ở trong chùa đôi lúc Phật tử họ bịnh rồi họ nằm ở nhà thương hấp hối người nhà gọi điện thoại để chúng tôi đến tụng kinh, ở trong đời chúng tôi nhớ không lầm thì chúng tôi đã có tiếp xúc nhiều trường hợp như vậy, nghĩa là đến gặp họ trong những giờ phút sau cùng trước khi họ chết.

 Ông bà ngày xưa nói : "Con chim khi sắp chết tiếng hót của nó bi thống vô cùng." nó hót với tất cả đáy lòng của nó, thì con người vào lúc chết thì sống rất thật, rất thật với cái nghiệp của chính họ. Bình thường thì chúng ta muốn che dấu, thí dụ như chúng ta ở nhà sống thoải mái, khi đến đám đông thì chúng ta giữ kẽ, chúng ta giữ quy củ nề nếp hơn, khi chúng ta nói chuyện với người thân thì chúng ta nói đùa nói giỡn nói sao cũng được, khi chúng ta nói với người lớn thì chúng ta giữ lời nói, nhưng những sự gìn giữ đó chỉ là gìn giữ lúc ta khỏe mạnh mà thôi, lúc sắp lâm chung đầu óc của chúng ta rất là muội lượt. Bởi vậy thường tiếng nói của người sắp chết là tiếng nói tận đáy lòng, khi họ tha thứ hay khi họ giận hờn hay oán thù, tất cả đều trút ra trong giờ phút cuối cùng, giờ phút sanh tử đó, giờ phút quyết định đó là giờ phút chúng ta phải chịu tất cả ảnh hưởng những gì chúng ta đã làm trong đời sống hàng ngày. 

Chúng tôi tin tưởng một điều rất mạnh, đó là chúng ta lâu lâu đi chùa, lâu lâu học kinh, lâu lâu học Phật pháp, không có cách gì mà trong trường hợp nào đó chúng ta có thể quên được rằng chúng ta là người biết đạo, dầu chúng ta biết với thái độ bình tỉnh hay chúng ta biết với thái độ bối rối, nhưng chúng ta nên nhớ rằng chúng ta có duyên rất lớn với Phật Pháp. 

Chúng tôi muốn hỏi qúi vị ở đây có khi nào qúi vị thấy người nào uống lộn thuốc hay là họ lên cơn sốt không? khi họ lên cơn sốt tới mức độ nóng quá thì họ nói sảng, và lúc họ nói sảng thì họ có thể nói bất cứ điều gì. Có một lần ở Việt Nam có Sư Ngộ Đạo và bây giờ Sư đã hoàn tục rồi, ở gần Sư chúng tôi biết rằng trong đời sống hàng ngày Sư là người tha thiết với Phật Pháp, lúc nào cũng học chuyên Phật Pháp ít khi nào nghĩ tới thế sự hay chuyện này chuyện khác, tuy nhiên một lần sư bị bịnh, lần đó sư uống lộn thuốc, rồi cả người Sư sốt nóng, và khi Sư sốt nóng lên lúc đó con người không tự chủ được nữa, và Sư Thiện Pháp nhờ các vị nấu đậu xanh để Sư này uống giã thuốc ra, thì khi Sư Ngộ Đạo sảng như vậy thì những gì Sư nói toàn là từ trong Vi Diệu Pháp, Sư nói rời rạc không mạch lạc, không thứ tự và Sư cũng không biết Sư nói cái gì, nhưng nó phát xuất từ tâm ý đáy lòng của Sư, và Sư nói toàn về Vi Diệu Pháp về pháp học này. Thì như vậy chúng ta thấy một điều rất rõ ràng là nhiều lúc mình không phân biệt được đó là bản năng hay đó là chủ tâm của mình, tuy nhiên bởi vì nó ăn sâu vào đời sống của mình rồi và trong giờ phút đó đã khiến nhớ lại. 

Như trong kinh nói một người đồ tể thì lúc chết có nhiều khi họ không thấy họ giết nhau nhưng họ thấy con dao hay tự nhiên họ nghe tiếng heo bị thọc tiết, hay một người thầy giáo thì thấy phấn thấy bảng thấy học sinh thấy bục giảng, hay người thợ may thấy vải hay kim chỉ v.v... Những điều đó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mình, thì như vậy nó là những tiềm thức dẫn chúng ta đi tái sinh. Khi trong kinh điển nói "hành duyên thức" có nghĩa là một hành động thiện hay bất thiện nào đó sẽ gieo hạt giống vào trong chủng tử, chủng tử đó tất nhiên nó không chứa chỗ nào thường xuyên. Thí dụ quí vị Phật tử ở đây qúi vị nói tiếng Pháp, không phải lúc nào trong đầu cũng chứa cả tự điển nhưng khi nói thì tự nhiên nó bật ra, hay là giống như trong cục đá không có lửa trong đó nhưng nếu qúi vị ghiền cục đá này đập vào cục đá kia khi nó đủ điều kiện thì nó phát sanh ra lửa, vì bản chất của cục đá khi cọ sát với nhau thì có thể sanh lửa được.

Thì ở đây khi Đức Phật Ngài nói về "hành duyên thức" Ngài nói rằng: "hành động của chúng ta có tác động rất lớn vào trong ý và tâm ý đó sẽ dẫn chúng ta đi tái sanh về sau này tạo ra kiếp tới.

2) Yếu tố thứ hai là tác ý:

Theo trong kinh Phật những tác ý của người phàm phu chúng ta không có tác ý nào là một chiều hết, nghĩa là không có ý niệm nào khởi lên mà không có phản ứng lại của nó.

 Qúi vị cầm một vật cho một người nào đó, cái hành động đó không phải chỉ là hành động người đó họ nhận cuốn sách là hết, mà cái hành động đó có ít nhiều thay đổi trong đầu óc của qúi vị mà chúng ta không biết được, đó gọi là phản ứng ngược lại. 

Như một người bố thí và bố thí hàng ngày hay một người trì giới hàng ngày hay người nghe pháp hàng ngày, hay người làm việc thiện hàng ngày, thì việc làm đó lâu ngày tâm tánh họ có thay đổi đi. 

Chúng tôi kể qúi vị nghe câu chuyện về một vị cao tăng đến thăm một làng bên Nepal ,và làng này chuyên môn về thủ công làm những mặt nạ. Qúi vị nào đã được xem người Tây Tạng hay người Nepal vũ, thì biết rằng khi họ múa điệu vũ rất tự nhiên, và những nhà Sư cũng khiêu vũ, làng xóm cha mẹ con cái cũng khiêu vũ. Họ cho rằng khi khiêu vũ như vậy thấy mặt nhau thì mất tôn nghiêm do đó mỗi người đều có mặt nạ. Giống như ở Hoa Kỳ họ có lễ hội Hallowen là một dạng lễ hội hoá trang, mọi người đều hoá trang đến đó và họ có những trò đùa quái ác nhưng họ không ngại vì họ có mang mặt nạ. Thì dân chúng ở trong làng này là xứ chuyên môn sản xuất những mặt nạ và thường thường thì họ sản xuất mặt nạ như qủi dạ xoa hay đầu trâu mặt ngựa, những mặt nạ rất ghê rợn, vì những người sống ở miền núi họ rất thích cảm giác ghê rợn đó, và vị cao tăng này để ý đến một điều là những người làm mặt nạ loài qủi ma lâu ngày thì khuôn mặt của họ cũng có phảng phất một âm khí và sát khí trong đó, vì họ cứ ngồi vẽ những đường nét tương tựa như vậy mặc dầu nét vẽ là đi vào giấy, mặt dầu là đi vào mặt nạ chứ không đi vào mặt của họ, nhưng trong hành động đó vô tình họ đã tạo ra cái gì đó phản ngược trở lại và trong gương mặt của họ có lẽ rất là hung ác

. Thì vị cao tăng này mới nghĩ ra một cách và vốn là một người vẽ rất giỏi, Ngài mới ngồi xuống và vẽ 12 cái mặt nạ và Ngài nói rằng đây là những mặt nạ Chư Thiên, đây là mặt nạ của vị Càn Thát Bà là những vị Chư Thiên hộ pháp, Ngài nói với dân chúng trong làng thử vẽ những mặt nạ này và bán sẽ có người mua vì những mặt nạ Chư Thiên nên rất đẹp. Thì quả thật như vị cao tăng nói là về sau này dân chúng họ làm những mặt nạ Chư Thiên rất là đẹp đẽ, những vị Càn Thát Bà v.v... thì những người khác họ mua rất nhiều do đó dần dần họ đổi nghề không vẽ mặt nạ của qủi dữ nữa mà họ vẽ mặt nạ của Chư Thiên. Vài ba năm sau vị cao tăng đó trở lại quan sát thì thấy dân chúng trong làng có thay đổi khuôn mặt của họ có vẻ tương sáng hơn, có vẻ thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn, đẹp đẽ hơn. 

Việc vẽ mặt nạ qủi với mặt nạ Chư Thiên mà có ảnh hưởng đến khuôn mặt của những người đó như thế nào thì đó là chuyện Đức Phật Ngài nói trong đời sống hàng ngày những hành của chúng ta ảnh hưởng đến tâm tánh của mình để hiểu "hành duyên thức". 


Chúng ta có thể nói một cách rất đơn giản, đó là việc làm của mình có ảnh hưởng đến tánh tình, mặt dầu ai cũng nghĩ  tánh sẽ ảnh hưởng tới việc làm nhưng việc làm có ảnh hưởng đến tánh tình. Lần trước chúng ta nói về chánh mạng là cái nghề thì sanh ra cái nghiệp, cái nghiệp thì sanh ra cái tánh vì vậy tất cả những cái gì xảy ra trong đời sống đều làm cho con người thay đổi.

 Đức Phật Ngài giảng trong Trung Bộ Kinh và trong Trường Bộ kinh, Ngài nói một điểm "không phải tên gọi, không phải giai cấp mà thay đổi con người, mà chính là hành động thay đổi con người", muốn biết người đó sẽ ra sao thì coi hành động người đó chúng ta sẽ biết, người đó sống thân cận bạn lành bố thí trì giới ưa chuộng chánh pháp thì từ từ sau đó thay đổi. 

Bây giờ hệ thống trường ốc và hệ thống giáo dục người ta không còn có nhiều thì giờ để cho con người thay đổi từ từ, họ muốn chúng ta là cục bột đổ vào khuôn ép lại để trong lò bao nhiêu độ rồi lấy ra trở thành cái bánh, thì bây giờ họ tạo khoá nào đó và nói rằng bạn muốn trở thành một người có tánh tình rất cương quyết thì ghi tên bỏ 30$ chúng tôi sẽ dạy khoá 7 ngày và qúi vị sẽ thay đổi, hay là qúi vị muốn học cái gì đó từng khoá từng khoá như vậy, thì điều đó chỉ có cái lợi một điều là nó cho chúng ta một cái kinh nghiệm tuy nhiên chúng ta không thể thay đổi, mà thay đổi chính và thay đổi lớn nhất đó là những việc làm ở trong đời sống và nhất là đi làm phước. 

Mặc dầu ngày hôm nay có ít người Phật tử được giống như qúi vị, nghĩa là những người còn tin rằng bố thí, trì giới, tham thiền có thay đổi đời sống của mình mặc dầu sự thay đổi đó rất là chậm nhưng nó có kết quả, một người ngày này cũng bố thí ngày kia cũng bố thí, bố thí từ năm này qua tháng kia trong tâm tánh của họ có khác đi, dĩ nhiên bảo rằng họ là toàn hảo thì cũng chưa chắc là họ đã toàn hảo nhưng bản thân họ có thay đổi, và một người trì giới cũng vậy, trì giới từ đời này qua đời khác con người có thay đổi.

Một lần trong mùa Vu Lan chúng tôi về Califonia có một Phật tử Phật giáo Nguyên Thủy, anh hỏi chúng tôi một câu hỏi trong lúc chúng tôi đang nói đạo với quí Phật tử, anh nói rằng tại sao mỗi lần xin giới Chư Tăng hay nói rằng: 

- "Chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới. Chúng sanh giàu sang là nhờ bố thí chứ sao lại nói giàu sang là nhờ giữ giới." 

Lúc đó chúng tôi không kịp trả lời nhưng có Ngài Hoà Thựơng Hộ Giác và HT mới hỏi anh vài câu, rồi HT nói rằng:

"Với một người bố thí ngày sau họ giàu nhưng họ chết yểu, giống như con gái của một nhà tỷ phú Hy Lạp có bạc tỷ trong tay nhưng mới mấy chục tuổi rồi chết, như vậy thì anh nghĩ sao

Cái bố thí có thể làm anh hưởng sự giàu sang. Nếu một người có bố thí thì kiếp sau họ sanh lên giàu có thành tỷ phú được, nhưng sống thì kiếp sống ngắn họ không hưởng được sự giàu sang đó. 

Như vậy có phải là giữ giới con người được giàu sang không? Cái đó có. 

Bây giờ một người biết bố thí và mà đi trộm cắp thì đời sau khi sanh lên có của thì bị người ta lấy mất thì có được hưởng sự giàu sang không? hay lại khổ thêm nữa, thà rằng mình nghèo mà không ai lấy của của mình được thì đỡ tức, còn đằng này mình giàu bữa nay mất đầu này mai bị người kia gạt, mốt gặp chuyện cháy nhà cháy cửa lụt lội thì mất tài sản, như vậy sự giàu sang đó còn khổ hơn là không có của. Như vậy giữ giới trộm cắp họ sẽ giữ được tài sản của họ. Hay một người làm ăn rất giàu có nhưng rồi do cái nghiệp kiếp trước họ tà dâm tà hạnh làm những việc làm bất chánh đời này sanh lên họ giàu có thật nhưng gia đình bị đổ vỡ, thì họ có hạnh phúc hay không? Thật sự không hạnh phúc, chúng tôi biết rất nhiều người họ rất giàu có nhưng vì đời sống gia đình không hạnh phúc nên họ hoàn toàn thấy sự giàu có không có ý nghĩa nữa.

Ngài Hộ Giác hỏi tiếp anh đó: "Như vậy thì sự giữ giới có làm giàu sang không?".

Thì nếu một người đời trước họ nói dối rất nhiều đời này sanh lên họ giàu có nhưng lời nói không ai tin hết, đi đâu không làm được chuyện gì, ngay cả người ăn kẻ ở trong nhà lời nói cũng không đủ uy để sai khiến họ thì giàu có đáng không? Và bây giờ nếu một người giàu có mà tâm cuồng trí loạn thì điều đó có đáng không? thì quả thật cái giàu đó không hưởng được. 

Vậy thì nói rằng "Chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới." có lý hay không ? Một người chỉ có bố thí thì chỉ được giàu thôi, nhưng nếu không trì giới thì có được hưởng sự giàu sang không?

 Do vậy những việc như bố thí trì giới tham thiền v.v... nó luôn luôn là việc ở bên ngoài và còn có ảnh hưởng tương quan qua lại là do cái hành đó nó tạo ra cái thức, bằng cách là nó sẽ thay đổi được những lãnh vực mà chúng ta không bao giờ ngờ tới, ai cũng nghĩ là bố thí mới là giàu, trì giới thì không giàu, trì giới là tu giải thoát thôi, nhưng thật ra cái này nó liền qua cái kia, cái kia liền qua cái này. 

Bởi vậy trong kinh Đức Phật Ngài nói:

- Một người có giới, bố thí một vật đến người có giới là phước báu cao thượng nhất.

- Một người có giới mà bố thí đến người không có giới thì cũng có phước nhưng phước nhiều là về người có giới.

- Người không có giới mà bố thí cho người có giới thì cũng có phước, nhưng Ngài nói ở trường hợp nào mà có giới thì nó vẫn có phước nhiều hơn là không có giới.

Ví dụ như người cho và người nhận và cả hai đều có giới hạnh thì quả thật phước báu rất là thù thắng. Tại vì khi họ cầm một vật cho mà họ là một người không có giới tâm không trong sạch thì tác ý của họ không mạnh bằng một người cho với tâm trong sạch. Cũng như trường hợp qúi vị có trình độ văn hoá, trình độ văn hoá cũng thời họ làm một công việc, họ dọn một bữa ăn nhưng người có trình độ văn hoá bữa ăn đó sẽ đẹp và ít miễn cưỡng hơn là người không có trình độ văn hoá, Người ta sẽ hỏi rằng chuyện văn hoá liên quan đến ăn uống mình phải giải thích rất là dài giòng nhưng quả thật nó ảnh hưởng, thì trình độ văn hoá đó giống như chúng ta giữ giới nó thay đổi được tâm hồn và nó làm tâm hồn chúng ta khác đi. 

Một bà thiền sư người Mỹ, bà là người đã học thiền với Ngài Mahasi Sayadaw sau nhiều năm tu thiền bà có nói một câu rất có ý nghĩa trong Anh ngữ mặc dầu chúng tôi cố gắng dịch sang tiếng Việt nhưng cũng không thể nói hết cái hay của câu đó : 

"you never get away with nothing." Có nghĩa là "Không có bất cứ việc nào khi chúng ta rời nó mà chúng ta không mang theo cái gì

Nghĩa là việc làm đó dầu có người ta biết, 

Hay việc làm đó kín đáo một mình mình biết,

Việc làm đó là việc làm đã làm rồi.

Hay chỉ có ý tưởng nuôi trong đầu hai ba ngày. 

Nhưng không bao giờ những thứ đó tan biến đi và nó không để lại cái gì hết. Không phải như vậy. Luôn luôn nó để lại một cái gì đó. Do đó nói rằng không bao giờ mình có thể trốn thoát mà trốn thoát với không có vết tích. 

Như qúi vị đi vào rừng gai lau sậy, và khi đi ra mà không để lại những vết trầy. Không thể nào được.
Thì đời sống này dầu việc lớn hay việc nhỏ, việc làm nào đi nữa nó cũng để lại một vết nào đó trong tâm hồn của mình.

Vì vậy Đức Phật Ngài nói" Tâm chủ trương việc làm, nhưng việc làm thì lại ảnh hưởng tới tâm."

Điều này là người tu tập thì sẽ hiểu được điều đó rất là thâm thúy, sẽ hiểu rất tường tận là tại sao hành lại duyên cho thức. 

Qúi vị thấy điểm này rõ hơn, khi sau một ngày tụng kinh, sau một ngày học Phật pháp và qúi vị ra về ngồi tỉnh dưỡng trở lại, thì khi chúng ta rời chùa ra bên ngoài sau thời gian nghe pháp rồi thì cách cư xử của qúi vị có khác, nếu qúi vị để ý rất là tỉ mỉ, qúi vị thấy rằng nhìn cuộc đời có khác hơn một chút là tại vì chúng ta muốn sống ở trong không khí này. 

Như chúng tôi thưa qúi vị là ở trong chùa làm việc gặp rất nhiều Phật tử nhiều hạng người, có những người họ đến chùa là vì mục đích văn hoá thôi, họ đến nói với Chư Tăng: "Quí Thầy hoan hỷ giới thiệu quyển sách này, giới thiệu tập thơ kia", nhưng rồi chúng tôi nói chuyện nửa ngày hay một ngày với vị đó, rồi quí vị đó ra về thì chúng tôi thấy rằng có hơi khác một chút trong cách suy nghĩ của mình. 

Nhưng trong một ngày sinh hoạt tu học với qúi Phật tử đây, thì sau một ngày đó không phải đến nói chuyện như vậy rồi đi về mà chỉ có qúi vị lợi ích mà chúng tôi không có lợi ích, chúng tôi có lợi ích rất nhiều. Một ngày sinh hoạt tu học với qúi vị cũng là một ngày tu học cho bản thân của chúng tôi. Chúng tôi sinh hoạt Phật tử trong việc tu tập thì qúi vị Phật tử tu tập thì cũng là chúng tôi tu tập. Và sau một ngày tu mình trở về tâm hồn được lợi lạc hai ba ngày và nhiều ngày sau đó mặc dầu từ từ thì ảnh hưởng nó sẽ mất đi. 

Cũng thời một cái hoa rơi nhưng một thi sĩ họ nhìn cái hoa rơi khác, một người quét đường họ nhìn cái hoa rơi khác và một người làm kinh tế họ nhìn cái hoa rơi khác, có người họ nhìn hoa rơi họ biết cái hoa đó có đem luột ăn hay nấu ăn được không, có người nhìn hoa rơi đó họ cảm thấy xúc động làm một câu thơ, có người nhìn hoa rơi họ chụp lấy câu chổi quét nó đi. 

Thì như vậy một sự vật chúng ta cảm nhận nó khác nhau là vì sao? là bởi vì cái hạnh nghiệp, hành động có ảnh hưởng đến tâm thức, chúng ta là người tu không thể nào không tin vào điều này. 

Nên bà con Phật tử có nhiều lúc họ hay đặt câu hỏi như vầy: là những người đi chùa bố thí trì giới tham thiền có thấy giàu hơn không? thấy cũng giống như mọi người cũng sanh lão bịnh tử thì như vậy có cái gì và chừng nào mới được hưởng quả đó. 

Nói rằng bố thí thì được giàu có mà chờ đời sau mới giàu thôi mệt quá rồi không bố thí nữa.

Nhưng một người khác họ sẽ trả lời như vầy: "là khi nào mình làm thiện ngay chính cái tâm làm thiện đó nó cũng có giá trị của nó, nó đã có quả của nó rồi, chúng ta không cần phải chờ cái quả ở kiếp sau"

Khi chúng ta làm thiện thì nó đã có giá trị của nó, cái giây phút mà chúng ta làm thiện đó là giây phút chúng ta sống mở rộng lòng ra sống với tất cả cái thanh thản, sống với tất cả nhẹ nhàng, cũng như chúng ta sống với một người bạn tốt thì chúng ta sẽ thay đổi. 

Đức Phật Ngài nói: 

- "Người mà có nhiều sự phóng dật, nghĩa là tâm hay phóng thì bước đầu tiên phải làm là ráng gần những người có chánh niệm".

Nếu  là người lười biếng mà chúng ta muốn bớt đi cái lười biếng thì chúng ta phải gần với những người tinh cần, tại vì điều đó có ảnh hưởng qua lại. 

Chính nhân duyên này Đức Phật Ngài gọi là "Hành duyên cho thức". 

Hành động tạo ra tâm, mà tâm này ở trong giờ phút cuối cùng của cuộc sống nó sẽ tạo ra cuộc sống kế tiếp mà Ngài gọi là "Thức duyên cho danh sắc."  chúng tôi sẽ nói sau, hôm nay chúng tôi chỉ nói về "Hành duyên cho thức.".

Qúi vị Phật tử có cảm nhận được điều khó hiểu là tại sao có những việc làm để lại trong lòng chúng ta nhiều chuỗi ngày, nhiều điều đáng nhớ và có những việc làm của chúng ta rất hay quên, chúng ta không nhớ được hay không để lại trong lòng chúng ta điều gì cả, thì điều này lại liên quan đến một sự việc khác đó là liên quan đến tình trạng sức khoẻ, liên quan đến nghiệp, liên quan đến hạnh báo nghiệp và liên quan đến sự tu tập của chúng ta.

 Khi qúi vị Phật tử tu tập nhiều thì sẽ biết rằng những gì chúng ta nên nhớ, và những gì chúng ta không nên nhớ. Khi nào chúng ta ít tu tập thì thường nhớ đến những điều mà chúng ta không nên nhớ, và chúng ta thường quên những gì mà chúng ta nên nhớ. 

Lấy ví dụ là đời sống con người khi nào ít tu thì hay nhớ đến chuyện người khác đã làm những gì cho mình buồn, nhớ mình đã mất con như thế nào, mình mất của như thế nào, nhớ được thì khổ sở như thế nào, còn những chuyện gì chúng ta làm ở trong đời sống thì rất ít khi nhớ tới. Những người làm tốt chúng ta hãy nhớ đến, chúng ta không cảm thấy tự nhiên trong chuyện đó, đó là bản năng chung của chúng ta. 

Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật Ngài có nói:

-  "Đối với một người thiện thì người đó khó làm ác, mà đối với người ác thì khó làm thiện."

 Như vậy, Ngài nói cái thiện cái ác không có cái nào khó và không có cái nào dễ, mà hễ chúng ta là người thiện thì chúng ta dễ làm thiện, chúng ta là người ác chúng ta khó làm thiện đó là vấn đề tự nhiên. 

Một người Phật tử hay đi chùa lễ Phật đảnh lễ Chư Tăng hay làm phước, đối với qúi vị đó chuyện bố thí trì giới rất là dễ dàng, như vậy rồi lâu ngày qúi vị nghĩ rằng "À! chuyện đó rất là tầm thường ai làm cũng được cả", nhưng không phải như vậy, qúi vị muốn qúi vị cứ thử đi, một người nào đó mà họ tính bỏn xẻn ít cho ai, qúi vị chỉ xin họ 10cents để bố thí cho người khác họ cũng không cho. 

Cũng như qúi vị hỏi thế nào là bạn thân và thế nào là bạn không thân. Bạn thân là đến nhà thì tự nhiên ăn, tự nhiên ở, nói tự nhiên, nhưng bạn không thân thì khách sáo, phải dè dặt, phải giữ kẽ trước sau bởi vì mình chưa có thân quen. 

Thí dụ muốn biết đời sống chúng ta tiến bộ đến mức nào thì cứ để ý là khi chúng ta làm thiện chúng ta có tự nhiên hay không mà khi chúng ta làm điều bất thiện chúng ta có tự nhiên hay không. Nếu một người nói dối quen miệng rồi họ nói dối một cách tự nhiên không dè dặt thì chứng tỏ căn tu họ mỏng nghiệp họ dày,. Hay một người được rủ đi câu cá là xách cần câu đi câu liền mà không nghĩ tới bất thiện thì rõ ràng là nghiệp dày mà đức mỏng. 

Nhưng có người nào đó mà rủ qúi vị đi uống rượu chẳng hạn, đi nhậu nhẹt ở đâu đó, nhưng qúi vị còn nghĩ lại đi thì đi nhưng trong lòng còn khó chịu không thoải mái và không cảm thấy tự nhiên thì chứng tỏ nghiệp mỏng và đức dày, tuy không biết là qúi vị có phạm giới hay không, nhưng căn tu của qúi vị có. 

Cái tự nhiên đó là do cái nghiệp tạo ra tánh, cái tánh thì dẫn đi tái sanh và Đức Phật gọi là "Hành duyên cho thức" và "Thức duyên danh sắc." 

Nên rất là khó nói một cách bình thường như trong đời sống chúng ta đang làm ở đây là nghiệp nào cũng có quả và Đức Phật Ngài nói là "Quả của nghiệp thì bất khả tư nghì." nó ảnh hưởng nhiều lắm mà mình không biết được.

 Như bây giờ qúi vị hỏi chúng tôi là sống ở Mỹ ảnh hưởng bản thân chúng tôi như thế nào, chúng tôi không thể nói được, hoặc một số qúi vị ở đây có bạn người Pháp ở ngoài hỏi "đi chùa nghe pháp rồi tu thì ảnh hưởng đời sống của anh như thế nào?" mình cũng không biết nói sao ngắn gọn trong một hai câu cho xong được, nhưng nó có ảnh hưởng và điều này là một điều rất vi tế trong đời sống. 


Khi một người tu tập, đặc biệt tu tập về Tứ Niệm Xứ, theo dõi hơi thở oai nghi lâu ngày chúng ta thấy mỗi mỗi hành động trong đời sống ảnh hưởng đến tâm tính của chúng ta. Ở các trường thiền, tu thiền ba ngày, năm ngày, tâm hồn rất yên lặng, chỉ ra tán dóc một giờ đồng hồ là kể như đạo hạnh tiêu hết, rồi phải tu lại vì tâm hồn phóng dật quá. 

Tại vì sao vậy? Một giờ chúng ta nói huyên thuyên chuyện này chuyện kia thì khi trở lại những chuyện đó đã ảnh hưởng chúng ta không còn chánh niệm được nhiều nữa. Hoặc giả là chúng ta tu tập chánh niệm rất lâu, các vị Thầy khuyên ráng bớt ngủ bớt ăn lại, thì thưa qúi vị thì mình cũng ráng nhưng tới khoản chừng một tuần lễ sau đó mệt quá nên nói thôi mình nghỉ xả hơi một hai bữa, ngủ được dài thêm một chút, ăn tự do một chút, ăn cái gì mình muốn, lợi dụng thời giờ để ngủ thêm một chút cũng không chết chóc ai hết, nhưng sau hai ba ngày trở lại thì thấy ngồi thiền khó hơn lúc trước, khó tập trung, thấy mệt hơn lúc trước, 7 ngày qua mình đã đi một đoạn xa bây giờ phải trở lại giống như chúng ta leo núi rồi tụt xuống rồi bây giờ phải leo lên tiếp tục. lúc đó mình mới thấy rằng đúng là "Hành duyên cho thức." 

Ở trong trường thiền cũng cho chúng ta thấy một vài điều là nếu chúng ta cố gắng tu tập chánh niệm thì trong lúc chúng ta ngồi thiền chỉ có một giờ hay một ngày nhưng khi đi ra bên ngoài thì cái giờ ngồi thiền rất là ảnh hưởng đến đời sống bình thường của chúng ta. 

Nên các vị Thiền Sư nói rằng: "Muốn biết vị trụ trì trong chùa ra sao thì coi nhà cầu của chùa có sạch hay không. Muốn biết qúi vị ngồi thiền tu hành có tinh tấn hay không, không cần phải có tha tâm thông mà chỉ coi lúc qúi vị xả thiền ra qúi vị đi đứng có nhẹ nhàng, qúi vị nói năng có tự chủ, ăn uống có đàng hoàng hay không, và nếu ngồi thiền thì ngồi thẳng lưng yên lặng hàng giờ mà ra ngoài làm việc hấp tấp thì biết rằng giờ ngồi thiền chưa có kết quả."

Tại vì sao? tại vì chánh niệm đó không có thay đổi đời sống hàng ngày như vậy thì là chánh niệm chưa đủ mạnh.


3) Yếu tố thứ ba là những hành nghiệp do thân, khẩu, ý đều có ảnh hưởng đến giòng tâm thức và chính giòng tâm thức đó ảnh hưởng đến kiếp sau của mình

Nói về "Hành duyên thức", là một chuyện có vô số lãnh vực chúng ta phải bàn, chúng tôi biết rằng đó là đề tài tương đối là khó hiểu, tuy nhiên ở đây chúng tôi muốn nói "Hành duyên thức" trong phạm vi tu tập, đây là một khoá tu, vì vậy trong sự tu tập của mình, mình thấy được gì về "Hành duyên thức" có thể đem vào được thì chúng ta có thể suy niệm về nó. 

Dầu sao đi nữa thì qúi vị có thể hiểu ý niệm nôm na về điều mà Đức Phật gọi là "Hành duyên thức" là những hành nghiệp do thân ,do khẩu, và do ý đều có ảnh hưởng liên quan đến giòng tâm thức, và chính giòng tâm thức đó có ảnh hưởng đến kiếp sau của mình, thức này chúng ta gọi là thức tái sanh.

 Ở đây chúng tôi muốn đính chánh một chữ cho rõ hơn khi nói đến "hành" là "hành động" thì không có nghĩa là cái gì mà làm bằng tay chân mới là hành động, thân hành, khẩu hành và ý hành chúng ta nói là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

 Như trường hợp:
- Chúng ta đưa tay đánh một người đó là thân hành,
- Chúng ta dùng miệng an ủi một người bằng lời nói ngọt ngào dịu dàng của mình thì là khẩu hành,
- Và ý tưởng gì tốt đẹp trong đầu óc chúng ta được nuôi dưỡng hai ba ngày đó là ý hành còn gọi là ý nghiệp.

Thì ý nghiệp đó cũng sẽ để lại:
-  ý ảnh hưởng ý, 
- thân ảnh hưởng ý 
- và lời nói cũng ảnh hưởng từ ý. 

Tất cả đều có ảnh hưởng đến giòng tâm thức, như vậy khi chúng ta nói "Hành duyên thức" không có nghĩa là chúng ta chỉ nói đến thân, khẩu ảnh hưởng tới ý, không phải như vậy mà cả thân, khẩu, ý đều ảnh hưởng tới ý. Nghĩa là một ý tưởng gì đó. 

Như qúi vị Phật tử thấy rằng bây giờ người ta hay có trò chơi điện tử (chơi game), có những game rất hào hứng, đặc biệt là người Nhật họ chế được trò chơi mà hồi xưa bắt đầu chỉ đánh box thôi, về sau này có kongfu, đánh đá đủ kiểu, rồi họ chế những trò chơi bắn súng, thì khi bình thường chúng ta chơi những trò chơi đó chúng ta nói nó vô hại, tại vì chúng ta không bắn người thiệt mà chỉ là bắn người giả thôi vì nó là trò chơi điện tử, nhưng chơi cái đó lâu ngày có ảnh hưởng về thần kinh, tại vì sao vậy? con nít mà chơi nhiều quá thì sanh ra bạo động hơn và nó bắn người khác dễ hơn và con người có vẻ là hiếu chiến hiếu sát hơn

Có nhiều Phật tử băn khoăn một điều là ở trong đời sống thỉnh thoảng chúng ta có những tâm niệm rất bất thiện, nhưng chúng ta thường tìm tâm hồn bình an, tự chủ được, không nói không làm gì hết chỉ là giận để trong lòng như vậy có quả hay không? thì chúng tôi có thưa rằng "có" và "cũng không".

 Không là bởi vì chúng ta không dùng tay đánh người , chúng ta không dùng lời để nói người khác nặng thì như vậy chúng ta sẽ không hối hận về lời nói của mình, nhưng tâm niệm oán thù mình nuôi trong tâm thì cũng dày vò chúng ta, nó cũng làm chúng ta đau khổ và nó cũng ảnh hưởng đến đời sống chúng ta rất nhiều, như vậy nó cũng có quả chứ không phải là không có quả. Nhiều người nghĩ rằng nếu chúng ta tự chế được và chỉ giữ ý niệm trong lòng thì sẽ vô hại không sao hết, nhưng thật sự nó có ảnh hưởng về sau nhiều. 

Tất cả Hành đều duyên cho Thức nên trong kinh điển và trong nền văn hoá của Đạo Phật được gọi là nền văn hoá tâm linh, 

Đức Phật Ngài nhắc nhở chúng ta qua rất nhiều đoạn kinh trong rất nhiều kinh điển là chúng ta nên chăm sóc đời sống tinh thần của mình, bởi vì thưa qúi vị có nhiều việc ảnh hưởng đến từ chuyện giải trí cho đến việc học hành cho đến chuyện làm việc cho đến những chuyện liên hệ trong đời sống hàng ngày điều đó đều có ảnh hưởng đến giòng tâm thức của mình, không phải chỉ có chuyện sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, bố thí, trì giới, tham thiền mới ảnh hưởng tới tâm linh đời sống của mình.

 Bởi như qúi vị thấy rằng chúng ta làm nghề nào lâu ngày quen có ảnh hưởng đến chúng ta, qúi vị làm nghề quen như chạy áp phe chẳng hạn thì qúi vị ngồi thiền chánh niệm hơi khó một chút vì qúi vị quen nghĩ đến chuyện này quen nghĩ đến chuyện kia, hay làm nghề nào quen những con số trước giờ, thì con số cũng ảnh hưởng đến trong đời sống hàng ngày nhìn thấy vấn đề con số, một nhà khoa học làm việc trong phòng thí nghiệm thì thấy gì cũng muốn tò mò cũng muốn tìm hiểu, chúng ta gọi là "Hành duyên thức".

Chữ tâm hành là ý nghiệp, chữ tâm tương đương với ý, và hành là tạo tác là nghiệp. Nhưng theo trong kinh thì khi nói đến ngôn ngữ ở bên ngoài mà nói là tâm hành thì là cái nghiệp tạo ra tác ý, nhưng đối với người tu thiền thì Tâm Hành, Khẩu Hành và Ý Hành lại khác, khi một hành giả tu thiền theo kinh Niệm Xứ mà nói về Thân Hành thì nói về hơi thở, mà nói về Tâm Hành là nói về sự tầm cầu mà chúng ta gọi là Tầm Tứ.

 Như trường hợp qúi vị bước đi kinh hành, qúi vị bước tới cuối con đường kinh hành mình có ý tưởng mình muốn quay lại, ý mình muốn quay lại thì quan sát ý muốn đó gọi là quan sát tâm. Và khi mình đang ngồi thiền thì đối với một hành giả hành thiền thì họ đang ngồi vẻ như bất động, cái mà còn năng động là hơi thở, khi mình ngồi hay mình nằm, ban đầu mình biết đang ngồi, biết đang nằm nhưng sau đó thì không còn nữa, tại vì không phải chúng ta ngồi rồi niệm ngồi ngồi hoài, thì cái gì mà còn lại của thân mà nó năng động thì cái đó gọi là Thân Hành, do vậy trong danh từ của thiền thì thân hành đồng nghĩa với hơi thở, tâm hành đồng nghĩa với tác ý, ý muốn tạo cái gì đó, và nói một cách khác thì theo dõi Tâm Hành nghĩa là biết về danh, và theo dõi về Thân Hành là biết về sắc.

 Như trường hợp chúng ta biết được ý tưởng khi tác ý muốn xoay người đó là danh và khi chúng ta xoay người đó là sắc thì như vậy khi nói đến Tâm Hành ở trong ngôn ngữ của thiền định, của tập thiền thì nói đến chủ tâm hay tác ý mà trong kinh gọi là Tầm và Tứ là muốn suy nghĩ, và ý định để hành động cái đó gọi là Tâm Hành.

 Như trong trường hợp Vô Minh duyên Hành thì chúng ta nói Thân Hành, Khẩu Hành và Ý Hành và tất cả những gì thuộc về ý nghiệp là sự suy tư toan tính làm việc này việc kia thì chữ Tâm Hành ở đây tương đương với ý nghiệp. 

Trong danh từ Phật Học nhiều khi một số danh từ rất là trùng lập nhưng rất rắc rối, ví dụ như chúng ta nói tâm, ý và thức, ở phương diện nào nó đồng nghĩa với nhau, nhưng mà rồi nhiều khi chúng ta nói nhãn thức, nhĩ thức, ý thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức rồi tới ý thức, nếu mà nói hai chữ đó trùng nghĩa thì chúng ta không cần phải nói hai chữ ý thức, mà chúng ta nói là ý hay là thức được rồi, nhưng chúng ta nói ý cũng là thức, nhãn thức cũng là thức, và nhĩ thức cũng là thức là như vậy ./.