Friday, January 6, 2017

Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 10 - Hưũ Duyên Sanh

Thập Nhị Nhân Duyên
 Bài 10 - Hữu duyên sanh, duyên lão tử

TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học năm 1995 tại Thụy Sĩ.

Chánh Hạnh chuyển biên, Minh Hạnh biên tập

Cái nhìn thập nhị nhân duyên trong kiếp hiện tại, là nhìn những diễn biến của sinh lý và tâm lý, nhìn tiến trình đó xem chúng ta sống như thế nào? Khi nhìn về quá khứ, chúng ta nhìn con người đã được tạo ra như thế nào? Khi nhìn về tương lai chúng ta sẽ đi về đâu? Cái đi về đâu đó là sanh già đau chết. 

Tại sao hữu lại duyên cho sanh? 

Như đã nói trong chi trước, từ hành động này dẫn đến sự hiện hữu kế tiếp của nó, hầu như bất cứ sự tiếp tục nào của đời sống đều phải có động lực của nó. Không có gì tiếp tục mà không cần có động lực của nó, không cần có nhiên liệu của nó, giống như một ngọn lửa có tiếp tục cháy được hay không là do có bổi và nhiên liệu hay không.

Trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật nói rằng, “ Tất cả chúng sanh tồn tại do vật thực”. Vật thực đó là:

-Đoàn thực là đồ ăn mặn ngọt các chất dinh dưỡng nuôi thân. 

-Xúc thực là cảnh nuôi tâm của mình, tâm của chúng ta được nuôi dưỡng được tạo nên bởi cảnh bên ngoài, chúng ta tiếp xúc như thế nào nội tâm chúng ta phản ảnh như vậy.

-Cảnh nuôi tâm, tâm nuôi sự sống chúng ta gọi là thức thực, từ tâm thức này có biến chuyển có hậu quả có ý muốn như thế này như thế khác, chúng ta tạo dựng cuộc sống chung quanh. 

-Tư niệm thực là tác ý tạo tác nuôi dưỡng sự luân hồi. 

Tất cả đoàn thực, xúc thực, thức thực, và tư niệm thực đều là những nhiên liệu giúp cho ngọn lửa tiếp tục cháy. Ở đây, hữu được xem duyên cho sanh bởi vì hữu tiếp tục duyên cho đời sống sanh kế tiếp. Khi chúng ta học tế bào học, chúng ta biết rằng từ đời xa xưa ngàn ngàn năm về trước, ông bà cha mẹ tổ tiên chúng ta có mang những tế bào gọi là gien di truyền DNA, công thức tế bào đó giống như tế bào của chúng ta ngày hôm nay, tiến trình di truyền giống như tiến trình chúng ta copy, lập đi lập lại do vật thực. Và nhiều lần lập đi lập lại như vậy từ đời này sang đời khác, chúng ta tiếp tục hiện hữu cho đến ngày hôm nay.

Chúng tôi nhớ năm 1981, chúng tôi đặt chân đến Hoa-Kỳ, ở tại chùa Pháp Vân, có một đạo hữu là Bác Danh. Bác vẽ một hình Phật đản rất đẹp về Bồ-Tát đản sanh. Tấm hình đó đã được nhiều chùa nhiều tu viện copy để in trên các thiệp của mình. Từ tấm hình nguyên bản đó copy ra nhiều phó bản và truyền từ chùa này qua chùa kia, từ năm này qua năm khác, và bây giờ chúng ta không thể phân ra nguồn gốc ban đầu của nó. Chúng tôi biết được tác giả của bản vẽ đó.

 Hữu duyên cho Sanh chỉ là một trạng thái copy, lập đi lập lại. Từ có nghiệp nên có sanh. Cái nghiệp và cái sanh đó có sự tương đồng với nhau, giống như hôm qua chúng ta nói về “ Thức duyên cho Danh Sắc”, và ngày hôm nay chúng ta nói chuyện lặp lại là “Hữu duyên cho Sanh”. Điều chúng ta phải ghi nhận tại đây:

Tại sao Sanh duyên cho lão tử?

 “ Tại sao chúng ta có già có chết? “Vì có sanh nên chúng ta có già và có chết”. Người đời hỏi chúng ta tại sao có già có chết. Chúng ta trả lời rằng, “ Vì chúng ta thiếu dinh dưỡng hay y tế chưa tiến bộ nên chúng ta có già và có chết.”

 Nhưng Đức Phật Ngài nói khác,” hễ có sanh ra tự nhiên có già và có chết”. Cái già và chết là hậu quả tự nhiên của sanh không ai có thể từ chối được. Trong kinh Phật có chữ sankhara là chữ hành các Ngài thường dịch là các hữu vi. Hữu vi có hợp và có tan. Trong cái tạo nên thì có mầm mống huỷ diệt. Có sanh thì phải có tử. Bởi vì nó sanh ra với một sồ điều kiện nào đó và khi những điều kiện đó chấm dứt thì tự nó phải diệt. Những điều kiện đó không thể có hoài được.

Khi Ngài Xá-Lợi-Phất còn là một cư sĩ, gặp Ngài A-Xà-Chí hỏi đạo lý, Ngài A-Xà-Chí nói:

 “ Pháp nào do duyên sanh, pháp đó cũng do duyên diệt” 
“ Chư Pháp tùng duyên sanh,
Diệt phục tùng duyên diệt, 
Ngã Phật Đại Sa môn, 
Thường tác như thị thuyết

Có nghĩa là pháp nào do duyên sanh cũng do duyên nó diệt, Đức Phật vị Đại Sa-Môn đã dạy như vậy

Đối với chúng ta câu nói đó rất bình thường, không thấy có ý nghĩ gì đặc biệt. Với Ngài Xá-Lợi-Phất cảm nhận được chân lý rất sâu xa, trong duyên sanh đã có duyên diệt. Sanh ra là duyên của hoại diệt. Ví dụ như chúng ta gặp gỡ nhau tại chùa này. Quý vị đến đây gặp nhau với điều kiện để được nghe pháp, tu học. Trong cái nghe pháp tu học đã có ý niệm chung cuộc, nghĩa là khi hết nghe pháp tu học thì chia tay, như vậy gặp nhau có điều kiện. Trên đời này hễ cái gì gặp nhau có điều kiện và khi điều kiện đó hoàn tất sẽ chấm dứt. Như vậy trong duyên sanh đã có lão tử.

Có một câu chuyện vui, trong đó chuyên chở một đạo lý quan trọng của đạo Phật. Ngày xưa vua Cảnh Tông bên Tàu đi chơi trên núi Tùng Sơn, khi leo lên núi cao nhìn thấy cảnh vật xinh đẹp hữu tình bên dưới, nhà vua bật khóc. 

Quan cận thần là Án Tử đứng kế bên hỏi nhà vua, 

-“ Tại sao Hoàng Thượng lại rơi lệ” 

Nhà vua mới nói rằng, 

-“ Giang sơn gấm vóc, nhưng một lúc nào đó phải chết bỏ lại tất cả, thật là đáng tiếc” Nghe nói như vậy, Án Tử bật cười. 

Nhà vua nổi giận hỏi rằng, 

-“ Tại sao lúc trẩm đang buồn rầu khanh lại cười? ”

Án Tử thưa với vua Cảnh Tông rằng, 

-“ Tâu Hoàng Thượng, nếu Tiên đế lột da sống đời ở kiếp, giang sơn gấm vóc này không đến tay Hoàng Thượng

Câu chuyện đó nói lên một đạo lý rất căn bản, chúng ta sanh ra để già và để chết. Chúng ta sanh ra có sanh nghiệp và sanh nghiệp có trì nghiệp để giữ mạng sống chúng ta. Nó giữ vì nghiệp quá khứ chúng ta gọi là Thủ và Hữu. Nghiệp đó khi tác động và ảnh hưởng của nghiệp đó hết, dĩ nhiên sẽ không còn lý do tồn tại, nó sẽ phải chấm dứt mà thôi. 

Khi Đức Phật nói đến Sanh và Tão tử, Ngài cho chúng ta biết hình ảnh rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp bất thiện chúng ta tạo ngày hôm nay sẽ có kết quả trong tương lai. Dầu nghiệp bất thiện để sanh vào địa ngục hay nghiệp thiện để sanh làm Thiên Vương Đế Thích, hoặc tu thiền để làm trời Phạm thiên cũng có giai đoạn, không vĩnh hằng, đều dẫn đến lão tử.

 Chúng tôi nhắc ở đây khi quý vị đọc về Lý Duyên Khởi nhớ để ý, Đức Phật nói, 

Do duyên Vô Minh có Hành, 

do duyên Hành có Thức, 

do duyên Thức có Danh Sắc,

 do duyên Danh Sắc có Lục Nhập, 

do duyên Lục Nhập có Xúc, 

do duyên Xúc có Thọ, 

do duyên Thọ có Ái, 

do duyên Ái có Thủ, 

do duyên Thủ có Hữu, 

do duyên Hữu có Sanh,

 do duyên Sanh có Già Đau Chết Sầu Bi kKổ Ưu Não,

 như vậy toàn bộ ngũ uẩn này tập khởi”

 Chúng ta nói chi phần sau ngắn là “ lão tử” thay vì “ lão tử sầu bi khổ ưu não” 

Tại vì sao? Vì sanh ra đời già chết không ai hoan hỷ cả. Chính sự vô thường cuả cuộc sống tạo nên nhiều cái khổ triền miên trong cuộc đời này nên có sầu bi khổ ưu não.

Nói một cách đại lược về thập nhị nhân duyên trong thời gian ngắn như vậy, đáng lẽ chúng tôi nói một số chi tiết về sự sanh và lão tử sầu bi khổ ưu não. Chúng tôi muốn dành một ít thì giờ cùng với quý vị đi qua một vài vấn đề tổng quan của lý thập nhị nhân duyên.

1/ Vấn đề thời gian. 

-Vô minh là nhân trong quá khứ

-Hành là quả trong quá khứ

-Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là quả của hiện tại 

-Ái thủ hữu là nhân của hiện tại 

-Sanh, lão, tử là quả của vị lai.

Trong tất cả những tiến trình đó, Đức Phật cố gắng nói lên ba điều nghiệp, quả, phiền não. Phiền não (có tham có sân có si) thì tạo nên nghiệp, nghiệp tạo nên quả, quả tạo nên phiền não. Quả vui thì tham, quả khổ thì sân. Phiền não tạo ra nghiệp. 

Phiền não là Nghiệp là Quả là Phiền não

Tạo nên một luân lưu có hình thức rất đặc biệt. 

2/-Khi Đức Phật trình bày Vô Minh duyên Hành, hành động phát xuất từ thiếu tri kiến, thiếu sự hiểu biết giác ngộ trong quá khứ. 

3/-Khi nói đến lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, nghiệp (hành động) trong hiện tại là do thiếu chánh niệm.

Từ mấu chốt xúc, thọ, ái, thủ, hữu này gợi lên một ý niệm rất quan trọng. Nếu ở đây thiền quán được thực hành, như vậy vòng luân hồi được gián đoạn tại một điểm nào đó. Chính vì gián đoạn tại một điểm nào đó, nếu đủ mạnh chúng ta có thể chấm dứt được luân hồi. 

Do vậy trong tiến trình của Thập nhị nhân duyên khi nói về danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu là những chi tiết rất căn bản của các vị thiền sinh hành thiền minh sát vậy. Giáo lý này được xem như là nền tảng của thiền học. 

Quý vị sẽ không bao giờ ngạc nhiên khi đọc quyển Thanh Tịnh Đạo, quyển sách nói về pháp hành. Trong đó lý thập nhị nhân duyên đóng vai trò rất quan trọng để giải thích về cuộc sống. 

Khi Đức Phật dạy về giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên, Ngài đề cập đến một yếu tố quan trọng khác mà tất cả các tín đồ của mọi tôn giáo đều quan tâm đến, đó là quan niện về thiện và quan niệm về ác, quan niệm về sự tu tập và quan niệm về sự hiện hữu của con người. Cái thiện và cái ác ở đây không nói lên ở hình thức tội lỗi hay không tội lỗi mà nó là một hệ luỵ tự nhiên của đời sống. Nó tự nhiên giống như chuyện hễ hạt giống khi gieo xuống đất sẽ nẩy mầm, mọc lên cây. Không ai có thể trách móc, không ai có thể nói là tội lỗi được. Hễ có Vô Minh và có Hành đương nhiên phải có thức. Hễ có Ái có Thủ có Hữu thì phải có Sanh, phải có Lão Tử. Điều đó là một hệ luỵ tự nhiên. Mặc dầu Ngài cho rằng tất cả rất tự nhiên, tuy nhiên Ngài cho rằng ý chí của con người có thể dự phần vào bẻ gãy nó. 

Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác khi đưa ra chủ trương hoàn bị, họ cho rằng những điều đó đã được an lập hoàn toàn, chúng ta gọi là tiền định hay gọi là số mệnh. Trong tiền định số mệnh đó tất cả con người phải đi theo nó. Nhưng Đức Phật cho biết rằng, nếu chúng ta nhìn nó một cách chi tiết máy móc thì chúng ta có thể dự phần thay đổi vào.

Ngày xưa trong lúc loài người đang cố gắng để chế chiếc máy bay. Một nhà học giả có tên tuổi nói rằng, “ Nếu Thượng đế muốn cho con người bay, thượng đế đã cho con người cặp cánh rồi.” Ông mỉa mai bởi vì ông thấy rằng chuyện con người muốn bay rất điên rồ, vì nếu thượng đế muốn con người bay đã sanh chúng ta như con chim rồi. Đối với định luật thiên nhiên, Đức Phật cho chúng ta niềm tin có thể hoán chuyển, có thể sửa đổi được điều đó. Do vậy khi Ngài nói về Lý Thập Nhị Nhân Duyên, Ngài khuyên chúng ta nên trở về nhìn lại từng chập tư tưởng của mình, sống bằng chánh niệm tỉnh giác, từ đó chúng ta có cơ hội để bẻ gãy sanh tử. Bởi vì Ngài nói cái cơ năng, cái tiến trình của cuộc sống có nhân và duyên, có trình tự, và nếu trình tự được chấm dứt tại một điểm nào đó thì tự nhiên những cái khác nó sẽ ngưng ngay. Bởi vì niềm tin có nhân có duyên cho nên chúng ta tin vào điều gọi là có sự tu tập.

Trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật có lần dạy Ngài A-Nan-Đa rằng.

-“ Này A-Nan-Đa, nếu tất cả những việc thiện và việc bất thiện đều do quá khứ an bài định đặt, Như Lai không dạy sự tu” 

Dĩ nhiên không phải bất cứ chyện gì nói tại đây, chúng ta đều phủ nhận nghiệp quá khứ. 

Tại Thái Lan có câu chuyện vui. Khi một nhà sư thương một người phụ nữ nào đó rồi hoàn tục. Phật tử nói rằng, “ Tại nghiệp quá khứ”. Ý họ muốn nói chắc kiếp trước là vợ chồng, kiếp này gặp lại nên họ thương nhau. Câu nói đó rất phổ thông, do vậy bên Thái Lan, chuyện tu và hoàn tục rất bình thường. Cái nhìn đó đôi lúc tương tự như là cái nhìn của định mạng vậy. Cái định mạng đó cơ hồ như không thể thay đổi được. Ở đây chúng ta đánh cuộc, không hẳn lúc nào tất cả mọi thứ đều do nghiệp quá khứ. Dĩ nhiên có rất nhiều thứ do nghiệp quá khứ, nhưng nghiệp quá khứ đó có thể thay đổi được. Nếu một người không có ý chí không có tâm đạo không có sự phấn đấu thì người đó cũng như sống buông tay, trôi theo dòng nước. Tuy nhiên vẫn có những người có thể ngồi vào chiếc bè và bơi ngược dòng nước.

Trong kinh tạng có nói, “ Người nào trong đời sống này tu tập, nghiệp quá khứ có thể chuyển.” 

Khi những Phật tử đem những lá số tử vi đến hỏi Ngài Hộ Giác.

- “ Lá số tử vi nói như vậy có đúng không?” 

Ngài Hộ Giác cười và nói rằng, 

-“ Trong tử vi coi có đúng nhiều vệc nhưng cung phúc đức chắc coi không đúng được

Tại sao vậy? Vì không ai biết mình làm thiện ra sao, làm ác ra sao. Cái thiện ác không cố định được, nhất là liên quan đến ý chí của con người. Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ điểm đó. Sống bám vào ý chí để đi ngược lại với cái mà chúng ta gọi là sự an bài của nghiệp lực trong quá khứ để lại cho đời sống hiện tại này.

Nếu quý vị có nhiều thời gian, hãy đọc Thập Nhị Nhân Duyên trong bộ Thanh Tịnh Đạo, và suy ngẫm nhiều hơn về những tác động của giáo lý duyên khởi. Càng nghiệm về điều này, nhất là trong thời kỳ nào đó khi cảm thấy thanh thản trong tâm hồn, chúng ta sẽ cảm nhận được rất nhiều điểm đặc biệt liên quan đến đời sống. 

Giáo lý của Đức Phật khi trình bày về cuộc sống như một thế giới không có tự chủ, Đức Phật gọi là thế giới vô ngã, thế giới chúng ta không quyết định được hết, có nhiều yếu tố chi phối. Đồng thời Ngài cũng nói lên một điều, chúng ta có thể làm nhiều việc, thậm chí có thể bẻ gãy sanh tử để đạt đến giác ngộ giải thoát. 

Hai điều đó nghe rất mâu thuẫn với nhau. tại sao Đức Phật nói thế giới là vô ngã, chúng ta không thể làm chủ được. Lần khác Đức Phật cơ hồ muốn như chúng ta làm chủ đời sống của mình. Khi quý vị nghiền ngẫm về Lý Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta sẽ thấm thía điều đó. Nó có hệ thống và hệ thống này nếu người nào xuôi tay thì người đó sẽ sống với hệ thống đó, nhưng người nào phấn đấu thì người đó có thể vượt ra khỏi.

Có một vị Chư Thiên đến hỏi Đức Phật,

- “ Ngài đang đứng lại hay Ngài đang bước tới?”

Đức Phật nói rằng, 

-“Đứng lại thời chìm xuống, bước đi thời trôi giạt, do vậy vượt lên trên, ta đạt chân giải thoát”. 

Ý Ngài nói “đứng lại” là không làm gì hết. Khi chúng ta không làm gì hết, chúng ta vẫn có xúc vẫn có thọ, vẫn có ái vẫn có thủ hữu, như vậy đời sống hiện tại sẽ dìm chúng ta xuống. Nói “ bước đi”, ý Đức Phật muốn nói rằng bước đi theo ái dục sẽ dẫn chúng ta trôi giạt lần nữa. Đức Phật vượt ra ngoài điều đó.

Ví dụ, trong xã hội chánh phủ và những người đã tạo ra hiến pháp và những người đã xây dựng cấu trúc xã hội này muốn con người sống và lớn lên theo một hệ thống mà họ đã sắp xếp như vậy. Nhưng không phải ai vào sống ở đây đều bị quăng vào trong hệ thống đó hết và đều phải sống như vậy. Có những người vẫn có thể làm khác đi điều đó, có nghĩa là từ hệ thống như vậy, chúng ta vẫn có cuộc sống riêng tư. Không nhất thiết là lúc nhỏ phải đi học, lớn lên nghe lời cha mẹ, rồi lập gia đình rồi nuôi con cái, rồi lớn lên già phải vào viện dưỡng lão. Đó là điều xã hội an bài cho mình. Tuy nhiên nếu chúng ta không có ý thức và không có sự phấn đấu, chúng ta sẽ sống theo an bài của xã hội. Như vậy trong cuộc đời này cái gì là định mạng và cái gì là không định mạng? Chúng ta không biết được.

Có những người sống với định mạng bởi vì họ không có ý chí phấn đấu, có những người thắng định mạng vì họ có ý chí phấn đấu, Đức Phật nói rằng có thể thay đổi được định mệnh, đó là niềm hy vọng Đức Phật dành cho tất cả chúng ta .

Ngày chúng tôi ở tại trại tỵ nạn, có một vị mục sư tên Bảo. Không biết tại sao ông rất có cảm tình với chúng tôi. Ông nói rằng trong Phúc âm có nói đến chân lý, bình an, và hy vọng, nhưng tại sao đạo Phật chỉ nói cuộc đời là khổ và không có gì là hy vọng. Chúng tôi có thưa với mục sư, 

- “ Thật sự Đức Phật có nói rằng con người sanh ra có hy vọng và hy vọng rất lớn là hy vọng thắng được định mạng” 

Nếu không có hy vọng, Đức Phật không khuyến khích chúng ta tu. Nếu không có hy vọng , đời sống ra sao nó như vậy hết và Đức Phật không nói đến khả năng tu giới, tu định, tu huệ. Ngài cho chúng ta biết có hy vọng rất lớn đi ngược khỏi vòng đó, nhưng hy vọng đó khó mường tượng. 

Người ta có hy vọng như thế này, họ nói rằng, “ Không biết theo đạo Phật có được bảo trợ hay không? Theo Đạo Phật có được cơm no áo ấm hay không? Theo đạo Phật có làm giàu được hay không?” Chúng tôi không dám chắc đạo Phật cho quý vị những hy vọng như vậy.

No comments:

Post a Comment