Wednesday, December 26, 2018

có những đứa trẻ dù chưa chứng đắc thiền định mà biết được kiếp quá khứ, do nguyên nhân gì?

Thảo luận 1. Tại sao có những đứa trẻ dù chưa chứng đắc thiền định mà biết được kiếp quá khứ, do nguyên nhân gì? Và phải chăng hễ kiếp trước mình là người thì sau khi chết cũng sẽ tái sanh làm người? 

Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Budhadhamma ngày 4 tháng 12, 2018. Minh Hạnh chuyển biên

 TT Tuệ Siêu:

 Câu hỏi thứ nhất. Đã có trường hợp một cậu bé kiếp này sanh làm người đã nhớ được tiền kiếp là người ở chỗ đó chỗ đó.

Một người ở kiếp này có thể nhớ được tiền kiếp của mình thì có 3 trường hợp:

1- Trường hợp thứ nhất: Đối với các chúng sanh thuộc về loài hóa sanh có 3 cách như các vị Chư Thiên, Phạm Thiên, hoặc những hạng ngã qủi v.v..., đó là người hóa sanh cho nên khi họ là loài phi nhân họ biết được tiền kiếp của họ, khi Ngài Xá Lợi Phất đang đi kinh hành lúc còn canh hai, canh cuối của đêm thì có một bóng của một ngạ qủi hiện ra phía trước đường kinh hành của Ngài, Ngài dừng lại hỏi: 
- Người là ai?
- Bạch Tôn Giả, tôi là ngã qủi.
- Tại sao ngươi đến đây?
Ngạ qủi trả lời: 
- Con 5 đời trước là thân mẫu của Ngài nhưng vì kiếp đó không biết làm phước, tạo nhiều nghiệp xấu cho nên bây giờ phải sanh vào ngã qủi đói khổ, xin Ngài từ bi tế độ.
Lúc đó Tôn Giả Xá Lợi Phất Ngài nói:
- Sáng mai ta đi khất thực xong về đem cho người bát thực phẩm rồi ngươi đem cúng dường đến Chư Tăng rồi tùy hỉ với phước báu mình đã làm hoan hỉ với phước báu mình đã làm. 
Ngạ qủi mới nói:
- Thân phận như thế này thì làm sao tiếp cận được với Chư Tăng.
Ngài nói:
- Vậy ta sẽ nhân danh ngươi để cúng dường thực phẩm đó đến chúng Tỳ Kheo, và người hãy tùy hỉ phước. 
Qua hôm sau thực hiện như vậy ngạ qủi được tái sanh vào cõi trời.
Như vậy, loài ngã qủi biết kiếp trước, Đức Trời Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương cũng đều biết, các Chư Thiên nói chung, như ông Cấp Cô Độc, bà Visàkhà sanh làm Chư Thiên, là một Thiên Tử. Sau khi làm vị Chư Thiên rồi thì trở xuống cõi người đảnh lễ Đức Phật. 
Đức Phật hỏi: 
- Này Thiên nhân, ngươi là ai?
Vị Chư Thiên đó thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn, con là Thiên Tử Sudatta, kiếp trước con là trưởng giả Anāthapiṇḍika Cấp Cô Độc, đệ tử của Ngài.
Đức Thế Tôn Ngài biết nhưng Ngài hỏi để có duyên cớ thuyết pháp cho các vị Chư Thiên, cho chúng Tỳ Kheo nghe luôn.
Như vậy, Chư Thiên, Phạm Thiên biết. Phạm Thiên biết thí dụ như Phạm Thiên Ghatikàra thường đến đảnh lễ Đức Phật nhắc lại chuyện quá khứ xa xưa bởi vì Phạm Thiên Ghatikàra là một vị A Na Hàm thời Đức Phật Kassapa kể lại câu chuyện trong thời quá khứ cho Đức Phật nghe, Đức Phật xác nhận điều đó, Ngài đã thấy đã biết. Cho nên, Chư Thiên, Phạm Thiên, ngã qủi, loài hóa sanh nói chung, loài phi nhân có thể nhớ được đời sống trước của họ. 

2. Nguyên nhân thứ hai, một người có thể nhớ được tiền kiếp đó là vị đắc thiền có thần thông (iddhipāda) vị đó hướng tâm đến quá khứ biết ở kiếp quá khứ sanh ở đâu, giai cấp như thế nào, tên họ là gì, họ biết được là do năng lực phát sanh.

3. Nguyên nhân thứ ba, là trường hợp hy hữu, trường hợp một số người họ sanh ra có thể nhớ được tiền kiếp của họ. Trường hợp này do nơi nguyện lực, chúng ta gọi chung là nguyện lực của quá khứ. Ở trong quá khứ khi họ làm việc gì họ nguyện :"Nguyện cho tôi được đời sau có thể nhớ được kiếp sống quá khứ như thế này", thì cũng thành tựu nếu dựa trên căn bản về phước báu bố thí, trì giới người đó đã làm thì đời sau sanh ra vẫn có khả năng biết được, nhưng rất hạn chế.
Người mà biết được tiền kiếp của mình mà biết được nhiều kiếp quá khứ thì chỉ có bậc đã đắc được Túc mạng thông (pubbe-nivasanussati), do đắc thiền đạt được túc mạng thông biết được tiền kiếp của mình.
Về trường hợp có nguyện lực là: 
1 - Là người đó tạo phước rồi nguyện,
2 - Là người này có cột oan trái rồi chú nguyện, do tâm lực gọi là pakatūpanissaya - thường cận y duyên mạnh hơn là nissayapaccayo - Y chỉ duyên, Thường cận y duyên là lập đi lập lại tư tưởng nhiều lần thì nhớ biết. Tức là ý muốn đời sau sẽ nhớ được kiếp trước thì chúng sanh đó đời sau sanh trở lại làm người nhớ được kiếp trước của mình, nhưng rất hy hữu. Người mà nhớ lại được tiền kiếp của mình nếu không phải do thần thông do phát sanh nếu sanh làm người mà nhớ được kiếp quá khứ là chuyện hy hữu.

Như vậy do 3 nguyên nhân này giúp chúng ta nhớ được tiền kiếp.

Câu hỏi 2. Nếu trường hợp một vài đứa bé mà có thể nhớ kiếp trước làm dân làng ở chỗ này rồi bị giết hại như thế nào, rồi được chôn thây ở đâu v.v... nó chỉ cho người ta nói người ta nghe đúng y sự thật 1.29.12 mặc dầu nó mới đến làng đó thì lần đầu tiên cha mẹ nghe câu chuyện mới nhớ, thì chúng ta hỏi rằng là nếu vậy thì đời sống quá khứ của nó cũng là kiếp người từ người rồi sanh trở lại làm người. Có phải chăng tất cả con người khi chết đều sanh trở lại làm người?

Câu trả lời là "không". 

Trong Tam Tạng kinh Điển Đức Phật Ngài dậy rằng: "Này các Tỳ Kheo, ít thay một người sau khi mệnh chung từ thế giới loài người mà sanh trở lại làm người. Này các Tỳ Kheo, ít thay những người ở thế giới nhân loại sanh làm Chư Thiên sau khi chết. Này các Tỳ Kheo, nhiều thay là chúng sanh đó sau khi từ bỏ thân người mệnh chung sanh xuống địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thì nhiều, cho nên đi đến cõi vui thì khó chứ đi đến cõi khổ thì dễ".

Còn trường hợp đứa bé nhớ từ kiếp quá khứ thì Đức Phật Ngài nói chết từ cõi người mà sanh làm người là điều ít có, Ngài nói là ít có trường hợp đó chứ Ngài không bác bỏ là không thể, từ ở thân nhân loại sau khi chết đi xuống địa ngục hay cõi súc sanh, ngã qủi, a tu la một thời gian rồi mới trở lại làm người. 

Đức Thế Tôn đã dạy hiện tại thân nhân loại này chết rồi sanh trở lại cõi nhân loại là một điều hiếm có, rõ ràng là như vậy./.

Thursday, December 6, 2018

Quán thân - Quán Tứ Đại - TT Giác Đẳng

Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
22. Đại kinh Niệm xứ (Mahàsatipatthana sutta)
Quán thân - Quán Tứ Đại

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 22 tháng 10, năm 2018
Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Cái nhìn của chúng ta về cuộc sống thường dựa trên chấp thủ vì chúng ta không thấy thế giới hiện tượng là một sự giả hợp, có nghĩa là khi thì nó đi với cái này, khi thì nó đi với cái kia, và lúc nó đứng một mình thì nó như thế này, khi nó đi với cái khác thì nó tạo ra cái khác, cuộc sống cứ thế đắp đổi, tức là cái này gắn với cái kia, cái kia gắn với cái nọ tạo thành một hệ thống đạo Phật gọi là Sankhara hay pháp hành hay pháp hữu vi, Ngài Hộ Tông gọi là pháp tập hợp.

Pháp tập hợp là cái gì cấu tạo bởi nhiều điều kiện, dù là thân hay tâm của chúng ta trong cái nhìn của Phật học đều là thế giới của hiện tượng. Và trong thế giới hiện tượng đó có nhiều nguyên tố, những nguyên tố này kết hợp tạo thành một hiện tượng, khi chúng ta không có nhìn thấy sự kết hợp đó thì thông thường chúng ta phản ứng một cách rất phiến diện, cái nhìn rất nông nỗi và đầy chấp thủ.

Ví dụ, khi mình giận ai mình tìm cái gì đó để giận người đó, nhưng nếu hiểu lý nhân quả, mình hiểu sự chi phối chỗ này chỗ kia. Tất cả chúng ta dĩ nhiên là ngoài tâm ý của mình nó còn có những chi phối khác và những chi phối đó thì trùng trùng đôi khi mình nghĩ người đó là tác nhân nhưng người đó vẫn là nạn nhân. Một người thù của chúng ta họ làm cái gì đó khiến ta bực bội nhưng sau đó thì mình thấy bản thân của người đó cũng là nạn nhân, tức là nói theo lý nhân duyên vừa là năng vừa là sở. 

Thân của chúng ta cũng vậy, trong chữ Hán dịch chữ "vật chất" là "phù trần căn". Phù trần giống như mây nổi, giống như bọt nước, giống như huyển hóa. Chúng ta nhìn thân này huyển hóa vì sự hiểu biết của chúng ta về y học cho chúng ta thấy không có cái gì là cố định, hoặc bền vững, không có gì như ý của mình mà tất cả chỉ là sự đắp đổi liên hồi cái này và cái khác, chúng ta nên nhìn điều đó bằng chánh niệm. 

Trước khi chúng ta bàn thế nào là nhìn bằng chánh niệm, chúng ta nói đến một cách quan sát hiện tượng tự nhiên, mỗi một cách quan sát của chúng ta trong chánh niệm đối với hơi thở mang một tác dụng khác, quan sát đối với đại oai nghi, tiểu oai nghi, đối với những thành phần của thân thể mang ý nghĩa khác. 

Ở đây, trong bài kinh hôm nay nói về quan sát trong phạm vi tứ đại mang ý nghĩa khác.

Chữ tứ đại, đại là lớn, tứ đại là 4 nguyên tố căn bản, 4 nguyên tố lớn để cấu tạo thành vật chất và đây là một cái nhìn rất cổ điển không phải chỉ thời Đức Phật còn tại thế mà xưa rất xưa ở tại Ấn Độ người ta đã nói đến tứ đại. Thật ra  quan niệm tứ đại này rất khác với ngũ hành ở trong Kinh Dịch hay trong nền văn hóa Trung Hoa nói về kim mộc thủy hỏa thổ.Chúng ta cũng nên biết về tứ đại theo thường thức bên ngoài và tứ đại theo trong Phật học.

Trước nhất là nói về Địa Đại: Chúng ta nói cái gì đó chiếm hữu không gian, là thể rắn hay mềm như mình thấy một vật thể nào đó có chiều kích hoặc lớn hoặc nhỏ đôi khi chúng ta đụng được chúng ta tiếp xúc được dù nó mềm như là mền hay là nệm, cứng như là khối đá khúc cây chẳng hạn, thì thuộc về Địa Đại tức là nguyên tố chiếm hữu không gian.

Thủy Đại: Thường là thể loãng như nước, nhưng thực ra cái gì quyến tụ lại không có nước thì vật chất đó rã ra, chúng tôi lấy một ví dụ răng của chúng ta rất là chắn chắc nhưng do cái lực gì đó hay mình cắn cái gì đó gãy răng thì như vậy cái gãy cái vỡ nó cũng là một hiện tượng đặc biệt từ Thủy Đại mà ra, tức là cái đó không còn kết cấu không dính nhau nữa. Thì Thủy Đại ở trên một ý nghĩa cùng tận là cái gì quyến kết lại những phân tử của vật chất.

Hỏa Đại: Được hiểu nhiệt lượng, thường chúng ta thấy hơi nóng, hơi ấm hay độ nóng gọi là nhiệt độ. Chữ nhiệt thường chúng ta nghĩ đến nóng nhưng thật ra cái nào cũng là nhiệt độ cho dù 0 độ hay 100 độ. Nói một cách khác, độ Celsius scale °C đọc là độ C  thì 0 độ là độ đông đá và 100 độ là độ sôi, nhưng trong độ Fahrenheit scale độ F thì độ đông đá là 32 độ F tức là bằng với 0 °C, thì cho dù 32°F thì nó vẫn là nhiệt độ. Ở đây chúng ta không dùng chữ nóng và lạnh mà chúng ta dùng chữ nhiệt lượng. Thì cái nóng và lạnh nó là khái niệm, ví dụ như là room temperature căn bản chúng ta cảm nhận trong °C  là 32 độ đối với con người chúng ta bằng với độ F là 72 độ là mình thấy thoải mái, nhưng nếu 10 hay 9 °C   mình thấy lạnh hoặc giả là 50, 60 °F  mình thấy lạnh, nhưng cái lạnh cái nóng không có nghĩa là lúc đó không có đổ ẩm nó vẫn có nhiệt lượng, tất cả hiện tượng vật chất đều có nhiệt lượng.

Phong Đại: Là gió ở đây chỉ cho sự vận hành, các sự chuyển động đều là hiện tượng của gió nhưng ngay cả một viên kim cương, ngay cả một khối đá vẫn có gió, bởi vì trong một nguyên tử luôn luôn có sự vận hành của lưỡng cực là cực âm và cực dương, thì trong sự vận hành của âm và dương nó không thể nằm yên một chỗ mà nó là sự vận hành. Ở đây chúng tôi không muốn đào sâu vào chuyện đó nhưng đại để là ngay cả một nguyên tử thì nó cũng không là một cái gì yên mà nó luôn có luồng sinh hóa nó có sự vận hành của cực âm cực dương. 

Thì không có cái gì dù là một hạt bụi hay một hòn núi mà nó không có 4 đại, nói theo trong bản thể pháp thì trong nước những giọt nước chúng ta thấy  cũng có đất nước lửa gió: 

- Địa đại tức là sự chiếm ngữ dù là một giọt nước hay đại dương, 

- Thủy đại là sự kết hợp của những tinh thể nước mặc dầu sự kết hợp đó dễ bị phân ra, chúng ta có thể lội trong nước được nhưng nó vẫn có cái kết hợp của nó,

- Và nó có cái nhiệt của nó, 

- Đồng thời trong tất cả hiện tượng vật chất đều có sự vận hành

Bốn hiện tượng đất nước lửa gió có hai khái niệm:

1 - Một khái niệm có tánh cách thường thức; đất như bùn sình, nước như nước sông nước biển, lửa như lửa đốt trong lò như hỏa diệm sơn, và gió như phong ba bão tố như gió nhẹ v.v... đó là cách nói bình thường bên ngoài.

2. Nhưng trong bản thể, cái gì là thể rắn nó chiếm hữu không gian nào đó là đất, cái nào có tánh cách kết hợp những phân tử lại với nhau là nước, và nhiệt lượng là lửa, sự di động dù là cực âm cực dương của nguyên tử hay bất cứ sự di động nào trong thế giới vật chất đều là hiện tượng của gió.

 Nhưng riêng chúng ta, nói đến đất nước lửa gió trong hai cái nhìn; bản thể và thường thức. Bây giờ riêng khi một hành giả dùng thân của mình nhìn qua những hiện tượng đất nước lửa gió là chúng ta có thể dùng một khái niệm rất bình thường để hiểu về thân ví dụ như:

-  Cái gì thuộc về thể rắn như tóc, lông, móng, răng, da v.v... gọi là đất. 

- Rồi mật, đàm, máu, mủ, mồ hôi, nước mắt, nước tiểu, nhớt, khớp xương v.v... gọi là nước.

- Và chất ấm, ở trong người chúng ta luôn luôn có độ ấm, mình thấy một xác chết lạnh, khi còn có chất ấm tiêu hóa chất ấm trong thân gọi là lửa, là nhiệt lượng của thân, 

- Gió là khí vận hành.

Trong cái nhìn về vật chất của người Tây Phương họ có khái niệm gần gần như vậy khi họ nói về solid là đất, liquid là nước, plasma là hỏa đại, gas là thể khí như phong đại. 

Chúng ta không bàn về sự so sánh, nhưng đại để một hành giả tu tập nhìn thấy những thành tố của thân chúng ta cũng hiểu bản thân của chúng ta là một thế giới của hiện tượng, ở trong thế giới hiện tượng đó nó được tập khởi được sanh ra được tồn tại và bị xáo trộn dẫn đến hủy diệt là bởi vì sự đắp đỗi của những yếu tố này. Khi nó điều hòa thì chúng ta khỏe mạnh khi nó bất hoà thì cái nào quá đáng như thân nhiệt nóng quá thân nhiệt lạnh quá chúng ta bị bệnh, hoặc giả chúng ta đi tiêu chảy hoặc bị bón cũng là bịnh, hoặc giả ở trong người chúng ta ợ hơi nhiều cũng là bịnh không ợ hơi cũng là bịnh v.v...

Cái nhìn như vậy là một cái nhìn đại loại gọi là một cái nhìn chung chung về hiện tượng giới.

Nếu một hành giả có khả năng ghi nhận liên tục quán sát với sự tập trú như vậy thì hành giả có thể nhìn thấy bốn đại của mình, và trong bốn đại là những nguyên tắc về thể rắn, thể loãng, nhiệt lượng, và thể khí mà xáo trộn thì gây ra nhiều vấn đề của cuộc sống.

 Chúng tôi lấy một ví dụ, trong một gia đình hay trong một tổ chức đâu đó êm xuôi người trên nói người dưới nghe, người dưới cần người trên giúp đỡ, chị ngã em nâng rồi bít nón che tai với nhau rồi tạo thành một guồng máy thì mỗi thứ vận hành tốt, tuy nhiên có lúc nào đó có một thành viên hay một lý do nào đó người ta không vừa lòng nhau, người này nói người kia không nghe, giận hờn cãi cọ tạo nên những xáo trộn khủng hoảng, thì cơ thể của chúng ta cũng vậy.

Trong cái nhìn của hành giả tu tập cái gọi là bịnh. gọi là bất an của thân chúng ta là do sự xáo trộn của bốn đại, sự xáo trộn của bốn thể, địa giới, thủy giới, hoả giới, phong giới. Thì những cái này nếu chúng ta chịu khó nhìn một cách trung thực một cách liên tục bằng chánh niệm, do nhìn liên tục bằng chánh niệm mình thấy cuộc sống quả là một cái gì đó tồn tại. Lấy thân mình làm một thí dụ, sự tồn tại đó do tinh cha huyết mẹ mà thành, do vật thực nuôi dưỡng, tứ đại phải điểu hoà, nếu tứ đại bất hoà thì chúng ta không ngồi nói chuyện như chúng ta đang nói chuyện với nhau tại đây, nếu nhẹ thì có thể uống thuốc ăn cháo nằm đắp mền, nếu nặng thì có thể bị tai biến mạch máu não, nặng hơn nữa thì chúng ta bị mất mạng, mình thấy rằng quả thật cái thân chúng ta thường ái luyến, cái thân mình thường chấp nó mỏng mảnh, cái thân nó phù du đến nỗi nó vượt ngoài sự suy nghĩ của chúng ta, cái nhận thức đó nó chỉ đến khi nào mình có khả năng để nhìn liên tục.

Về vấn đề này chúng tôi chia sẻ một kinh nghiệm của Thiền Sư Ajahn Liêm, một người chúng tôi có dịp đi đầu đà chung trong 6 tháng. Vị này tu quán tứ đại, vị này nói với chúng tôi là từ công việc nhà nông mưa thuận gió hoà cho đến đời sống ở trong rừng lúc trời lạnh trời nóng trời mưa trời nắng đến cái thân lúc mạnh lúc yếu thì vị đó luôn luôn nhìn thấy tất cả đều là hiện tượng của địa đại, hoả đại, thủy đại, phong đại. 

Tại vì thấy như vậy?

Chúng tôi lấy một ví dụ như mỗi người học một môn học nào đó, thí dụ như một người học về vật lý, học về khoa học, một người học về văn, người học về triết học thì họ dựa trên cái nhìn đó để nhìn về thế giới này, cũng chiếc lá rụng đó trong cái nhìn của một nhà thơ và chiếc lá rụng đó trong cái nhìn của một nhà học về thực vật học, học về sinh vật học rất khác, cũng trong hiện tượng chiếc lá vàng đó đối với một thi sĩ thì khác và cũng hiện tượng lá vàng đó đối với nhà nông thì nó khác.

Thì đối với hành giả tu tập trước nhất hành giả hiểu rằng vật chất nó vốn có những nguyên tố và những nguyên tố này nếu nó vận hành nhịp nhàng đều hòa thì đời sống an lạc thân thể khỏe mạnh. Nhưng không may cho chúng ta là ở trong thế giới hiện tượng đó không ai làm chủ kể cả bản thân của chúng ta, khi mình nhìn lâu ngày thì hiểu rằng thiệt ra nó không thuộc về ai hết nó là một sự hỗn độn hỗn mang của một dòng chảy của thế giới, mặc dầu hàng ngày mình trau chuốt nói là thân của mình mình muốn nó làm gì cũng được.

 Ngài HT Hộ Giác có lần Ngài nói với chúng tôi: "Khi già rồi bịnh đến thân mình lạ lùng, tự nhiên buổi sáng mình rất khỏe ăn điểm tâm xong về phòng tự nhiên chân bị chuột rút hay chân đau, cái đau cái nhức nó đến với mình hồi nào mình hoàn toàn không tiên liệu được, nó trăm muôn ngàn thứ." Đó là lời nói của vị Lão Tăng, của vị HT lớn tuổi. Chúng ta còn nghe những lời khổ hơn nữa, đó là Đức Phật Ngài nói với Tôn Giả Ananda là "thân của Ngài giống như một chiếc xe cũ, chiếc xe lúc mới còn tốt thì hào nhoáng đẹp đẽ nhưng khi nó cũ rồi thì phải ràng phải buộc phải làm thế này thế kia để gìn giữ cho chiếc xe chạy được", vị nào có xe cũ thì biết mình bảo trì nó rất là mệt mỏi.

Từ những hiện tượng đó dễ dàng cho chúng ta thấy ba đặc tính và ba đặc tính Vô Thường, Khổ và Vô Ngã là cả một thuyết phục rất lớn giúp cho chúng ta rất nhiều:

- Đặc tính thứ nhất là tính bất định vô chừng. Cái bất định vô chừng đó Đạo Phật gọi là anicca là vô thường. Thật ra chữ vô thường nhiều người nghĩ là sự thay đổi, nhưng vô thường có nghĩa là cái gì đó vượt ngoài trù tính vượt ngoài định đặt của chúng ta mà nó vô chừng chúng ta không tính trước được, nó khi vầy khi khác nó bất chừng giống như bây giờ mình sống với người nào đó tính tình họ vô chừng khi vui khi buồn, vì tính vô chừng đó họ vui khi nào buồn khi nào mình không biết. 

- Đặc tính thứ hai là Khổ. Thì thân của chúng ta cũng vậy, cái thân của chúng ta lúc nó đau nó khỏe mình không biết được, nay như vầy mai lại khác dù già dù trẻ cũng vậy, dĩ nhiên là có những người bịnh nhiều hơn người khác nhưng căn bản nó có tính là vô chừng nên khổ. 

- Đặc tính thứ ba là Vô Ngã: Và khi nhìn vào những hiện tượng chúng ta cảm nhận điều Đức Phật nói nó là rỗng không, là bất toàn, là không có hoàn hảo. Cái rỗng không đó giống như một canh bạc có người tụ tập với nhau cùng đánh bạc thì có người chơi, có người làm cái, có người thua, có người thắng, khi tàn cuộc mọi người giải tán thì chẳng còn gì hết, một canh bạc đúng là tụ rồi tán. Thì thế giới này nó là rỗng không là bất toàn.

Khi tứ đại hợp thành thân của chúng ta mình thấy thân của mình đẹp như vầy, mỹ miều như vầy, tốt như vậy, mình thương nó như vậy, mình nghĩ về nó là như vậy, nhưng quả thật bởi vì nó là một kết cấu của nhiều thành tố, bởi vì nó là một cái gì đó thuộc về vật chất, nó là thể rắn hay thể loãng, hay nhiệt lượng, hay sự vận hành di động đi nữa thì những nguyên tố vật chất chỉ là nguyên tố thôi, nó không là gì hết. Mình bảo nó đẹp, nó vĩ đại, mình có tô hồng chuốc lục thì nó vẫn vậy bởi vì bản chất của nó chỉ là thế giới của hiện tượng. Do vậy nó bất toàn, do vậy là khổ, do vậy nó rỗng không.

Và chẳng những vậy, khi quan sát thân bốn đại này chúng ta nhận ra một điểm mình hoàn toàn không làm chủ tại vì nó luôn luôn tương tác, luôn luôn biến đổi, nó không thể nào ai làm chủ hoàn toàn được. 

Thật ra, khi học về tứ đại, về những nguyên tố của đời sống, về thế giới của hiện tượng trong cái nhìn khoa học rất trung thực, trong cái nhìn của Phật học cũng rất là trung thực thì mình hiểu rõ lý vô ngã, tại sao lý vô ngã? là vì chúng ta thấy trong thân của mình, mình ăn ngon mình lựa thức ăn thích hợp với mình, mình mặc quần áo cho đẹp cho ấm, mình rửa tay để vệ sinh v.v... thì đồng ý là nó cũng có tương đối, nó cũng có những khả năng hữu hạn nào đó và chúng ta có thể kiểm soát một phần trong đời sống. Nhưng cái đau cái bịnh cái chết của thân chúng ta hoàn toàn không làm chủ được nó. Chúng tôi làm trụ trì một ngôi chùa chúng tôi biết là ở trong chùa từ cơ sở chùa từ nóc chùa cho đến các phòng sở, cho đến điện gas nước, cho đến Phật tử, cho đến các sinh hoạt nó hiện hữu do nhiều nhân nhiều duyên, không thể nói mọi việc theo ý của mình được, không có vị trụ trì nào nói tôi làm trụ trì tôi điều khiển hết cả ngôi chùa. Hay vị nào trong một gia đình làm chủ điều khiển vợ, chồng và con cái, hay cái thân của chúng ta mình bảo rằng mình điều khiển được nó, không có. 

Người Trung Hoa có câu: "lục thập nhĩ thuận" tức là đến tuổi nào đó mình hiểu đời hiểu cuộc sống thì mình thuận theo tự nhiên hơn là chống chế đòi hỏi phải thế này phải thế kia tại vì chúng ta nhìn thấy nó vốn là tập hợp của nhiều thành tố và ý muốn của chúng ta cũng là một thành tố thôi nó không thể nào là tất cả.  

Khi hành giả hiểu được điều đó bằng kiến thức thì hành giả có thể đem vào chánh niệm. Chánh niệm khác với kiến thức là kiến thức của chúng ta hoặc là trí văn hoặc là trí tư, tức là nghe hoặc giả là suy tư. Nhưng trí tu để hiểu biết điều đó, trí tu mà thấy bốn đại là do chúng ta ở trên cái thấy trực tiếp ở trong chánh niệm, chúng ta trực tiếp ghi nhận và ở trong sự ghi nhận đó còn có sự liên tục nó liên tục như một dòng chảy, và bởi vì chúng ta sống thấy nó. Ngài Ajahn Liem nói với chúng tôi có thời gian Ngài niệm về tứ đại thì dù đi ngang một nơi cư trú ở trong rừng hoặc giả khi thấy thân mình thì thấy tất cả đều là do bốn hiện tượng là địa đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại, những hiện tượng đó nó chợt đến chợt đi, chợt  ẩn chợt hiện, nhưng nếu mình nhìn liên tục thì nó là một phiên chợ, phiên chợ đó mình đi vào trong chợ thì nào là người bán nào là kẻ mua nào là tiền bạc kinh tế v.v... mình thấy nó ồn ào rộn ràng như vậy, rồi phiên chợ tan nó để lại cho chúng ta một bản tiết tấu và cái phiên chợ hồi sáng nó chỉ là một phiên chợ nó là của nhiều hiện tượng nhiều nguyên nhân nhiều lý do. 

Thì nếu có cái gì đó một hành giả được hưởng lợi nhiều nhất đó là do có cái nhìn một cái vô tư tức là nhìn không có thành kiến, một cái nhìn bền bỉ chúng ta gọi là có định, và cái nhìn trung thực là cái nhìn của chánh niệm, cái nhìn trung thực rất là quan trọng. 

Một người không tu Tứ Niệm Xứ thì nhìn mỗi thứ đều dựa trên cái nghe cái suy diễn như là chúng ta đang nói tại đây qua suy diễn.

Nhưng một khi hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ rồi thì chỉ lẳng lặng nhìn thế giới này đến, thế giới này đi, thế giới này tụ, thế giới này tán, cái thịnh, cái suy, cái khỏe, cái mạnh, cái đau, cái bịnh, mình nhìn một cách trung thực.

- Cái nhìn rất trung thực nó như thế nào mình ghi nhận như vậy, đó gọi là niệm. 

- Cái nhìn rất bền bỉ nhìn có tập trung bền bỉ thí dụ như y cứ trên bốn đại mình nhìn thì cái nhìn bền bỉ đó gọi là định.

Tiếp tục nhìn và khi có định và niệm như vậy thì hành giả phải có cái nhìn khác hơn bình thường tại vì chúng ta thấy nó là như vậy.

 Chúng tôi nhớ một trong những yếu tố các vị Thiền Sư thường dạy đó là một người tu tập là phải thấy được những lúc khó khăn, những lúc đau yếu, những lúc buồn nản, đó là một cơ hội. Ví dụ như khi đau bịnh thay vì mình  kêu la rên rỉ gọi người này gọi người kia mình mong có người đến chăm sóc đến an ủi. Nhưng một người đau nếu người đó có cái nhìn trên phương diện tứ đại thì thấy đúng là tứ đại bất hòa. Thí dụ, cơ thể mình hôm nay tự nhiên nóng hơn nhiều, thân nhiệt không bình thường, cơ thể hôm nay tự nhiên mình bị tiêu chảy chất loãng ra nhiều, hay là bớt nước nhiều, cơ thể chúng ta hôm nay mềm nhũn giống như cái mền nhúng nước, thì rõ ràng tứ đại không bình thường và mình dùng cơ hội đó thì mình có nhiều cơ hội để nuôi dưỡng chánh niệm.

Trong một cách nhìn các vị Thiền Sư thường dạy chúng ta là Yoniso ca manasikàram  yonisomanasikāra là khéo tác ý hay như lý tác ý tức là nếu một vị có kiến thức và có bản lãnh của Tứ Niệm Xứ thì những điều này tạo thành những cái gì nổi bậc rõ nét trong đời sống, thì dù nó là vui, nó là khổ, thích hay không thích, dù thuận hay nghịch, nó lại là một mấu chốt để chúng ta nắm bắt lấy thực tại. Tại sao nó lại là mấu chốt? Tại vì cho chúng ta nắm bắt lấy thực tại, là tại vì đời sống hàng ngày chúng ta sống với sự suy tư miên man, sống với ảo giác, sống xa rời thực tại, sống với ý tưởng  "tôi là, ta là, tôi đẹp, tôi xấu, tôi hay, tôi giỏi, tôi dở, tôi vinh, tôi nhục" nhưng một khi hành giả đã sống ở trong chánh niệm rồi thì thấy rằng hiện tượng này sanh khởi, hiện tượng kia diệt.

Hôm nay chúng ta chỉ nói riêng về tứ đại tức là địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, thì khi nói về bốn đại này hành giả thấy được chính những xáo trộn là cơ hội để nắm bắt lấy thực tại là cơ hội để chúng ta ghi nhận  đó gọi là Yoniso ca manasikàram  yonisomanasikāra là khéo tác ý hay như lý tác ý nhưng quan trọng là phải nhìn thấy rất bền bỉ. 

Đúng ra thì không cần phải học về y học, hay giỏi về hệ sinh học để chúng ta hiểu thế nào là sự hoạt động của cơ thể, một vài sự quan sát mang tánh cách hơi vô tư thì chúng ta thấy bốn hiện tượng đất nước lửa gió là những nguyên tố của thân, và chẳng những vậy nó rất vô chừng, nó làm cho thế giới này không hoàn hảo, nó làm cho chúng ta thấy có rất ít khả năng để kiểm soát một cách chủ quan và từ đó chúng ta nhìn sự vật một cách nhẹ nhàng hơn.

Không có một vị hành giả nào lợi lạc cho bằng là một ngày nào đó chúng ta trở về với cái gì rất là tự nhiên, ở trong đạo Phật gọi là tự tánh,  tánh riêng của mọi sự vật, cái gì vô thường mình nhận nó là vô thường, cái gì bất toàn mình nhận nó bất toàn, cái gì vô ngã mình nhận nó là vô ngã, cái gì thuộc về thân biết là thân, cái gì thuộc về tâm biết là tâm, cái gì sanh biết là sanh, cái gì diệt biết là diệt, đó là sự trở về tự tánh của các pháp. 

Khi chúng ta có thể nhìn thấy những điều đó như một dòng chảy, như một phiên chợ, như là một đám mây phù vân có tụ có tán, có đến có đi, lâu ngày thì hành giả chỉ đóng một vài trò của một người quan sát và quan sát bền bỉ, quan sát được liên tục với định và niệm, chứ hành giả không vốn có ý định phải phê phán cái này đòi hỏi cái kia, phải đặt vấn đề như thế nọ.

 Cái khổ của chúng ta là vấn đề gì chúng ta cũng có ý kiến "tôi thích" hay "tôi không thích". Khi mình đã quan sát, điều thứ nhất là nó không có chuyện gì thích hay không thích, giống như đối với nhiệt lượng trong thân thể hay đối với nước trong cơ thể, hay 32 thể trược lông móng răng da chúng ta biết tất cả những thứ đó không nằm yên một chỗ, ngay cả răng cứng nhất thì nó cũng có tốt cũng có lúc hư, tóc thì có lúc nó ngắn lúc dài, có lúc nó bạc, rồi da chúng ta cũng thay đổi liên tục, màu da bên ngoài nó đẹp đẽ thực ra nó chỉ là cái gì đó mà chúng ta chưa nhìn kỹ nhìn rõ thôi.

Khi hành giả đứng ở một vị thế của một người sống bằng chánh niệm, nuôi dưỡng chánh niệm và dựa trên cái nhìn về tứ đại thì lúc đó chúng ta sẽ hiểu ngay ra một lý lẽ là để thân thể mình được bình an khỏe mạnh thì tứ đại phải điều hòa, còn chuyện tứ đại bất hòa sanh ra bịnh thì chuyện rất thường chuyện đó mình không kiểm soát được, và khi nó sanh ra bịnh rồi thì không phải lúc đó mình than mình trách, uống thuốc thì cứ uống thuốc nhưng mình phải chấp nhận đó là một thế giới của hiện tượng. Và cũng dựa trên bốn đại này hành giả sẽ có được một tư thế là lẳng lặng quan sát nhiều hơn có ý kiến, hơn là đòi hỏi hay bực bội, hay là có một đề quyết là nó phải thế này nó phải thế kia, cái nhìn đó là cái nhìn rất là đặc biệt của hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ.

Trở lại một lần nữa, Đức Phật Ngài dạy ở trong bài kinh hôm nay Ngài luôn luôn nhắc lại đó là : 

- "Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân"; là mình lấy thân của mình để quán, 

- "Quán thân trên ngoại thân"; tức là mình thấy thân của mình thân người khác cũng là một thể, mình ngồi ở bên giường người bịnh, thân người bịnh như vậy thì mình biết thân của họ cũng là thân tứ đại, thân của mình cũng là thân tứ đại, tuy đó là ngoại thân đây là nội thân nhưng nó cũng đồng thể. nó cũng nhất thể. cũng giống nhau thôi.

- "Sống quán thân trên nội và ngoại thân", cả hai, mình lấy cái này so sánh cái kia, lấy cái kia so sánh cái này, mình bây giờ già thì người kia cũng sẽ già, hay người kia bịnh rồi mình cũng sẽ bịnh giống như vậy, tức là sống quán thân nội và ngoại thân.

- "Vị ấy quán tánh sanh khởi  trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân". Những hiện tượng từ có trở thành không, không trở thành có, cái không trở thành có gọi là sanh, cái có trở thành không gọi là diệt, thì hiện tượng sanh diệt là đến đi chợt ẩn chợt hiện, cái có trở thành không cái không trở thành có thấy rất là rõ, thật ra thì hiện tượng của tứ đại rất là dễ nhận ra.

-   "'Có thân đây', vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm". Cái thân này không phải là để chán để bực bội, cái thân này không phải để lên án, cái thân này dùng làm phương tiện để làm quán chiếu, để đạt đến chánh trí và chánh niệm. Chánh trí ở đây tức là biết được sự thật, chánh niệm là khả năng tỉnh táo. Thân của chúng ta thường làm đầy đọa mình, cái thân làm phiền mình, nhưng bây giờ với hành giả có một thái độ tích cực nghĩa là có thân ở đây thay vì mình giận mình phiền khi nó đau mình khổ, một hành giả có tu tập rồi thì thân này phải dùng thế nào mà nó vẫn là phương tiện tốt, có thân này đây đễ sống với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm 

-  "Vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời", là vị này sống không có định kiến hay thành kiến, không cố chấp. Không sống nương tựa không chấp trước vật gì ở đời là không đòi hỏi nó phải thế này bảo đừng như thế kia mà chỉ ngồi nhìn thôi có sao biết nó như vậy, đó là có chánh niệm.

-  "Này các Tỷ kheo, như vậy vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân".

Một lần nữa, về bốn pháp quán tưởng, chúng ta gọi là quán tưởng tứ đại này nó cũng đòi hỏi một chút kiến thức nhưng dù sao đi nữa thì nó đỡ hơn phần quán 32 thành phần của thân thể. 

Về cách quán tóc, lông, móng, răng, da chúng ta cần trang bị cho mình một số kiến thức do các vị Thiền Sư hướng dẫn hay trong sách vở hướng dẫn.

 Về quán tứ đại này thì có thể qua một hai bài giảng của vị Thiền Sư có kinh nghiệm việc này chia sẻ thì chúng ta có thể dùng bốn nguyên tố này để như một hướng dẫn cụ thể chúng ta nhìn vào thân nhìn vào vật chất và đặc biệt vào thân chính mình thì qua đó nuôi dưỡng được chánh niệm. Đối với Đức Phật đề tài này về bốn đại hay về những thành phần của thân thể hay về tiểu oai nghi, đại oai nghi, hơi thở thì tất cả đều là những phương cách để hành giả duy trì được chánh niệm, cái khéo của một người tu tập chánh niệm tại đây là làm thế nào đó để có thể nhìn sự vật qua cái nhìn của bốn nguyên tố của vật chất và làm sao cho cái nhìn đó nó bền bỉ liên tục, cái nhìn bền bỉ chúng ta gọi là định và cái nhìn trung thực gọi là niệm, Tứ Niệm Xứ đòi hỏi hai niệm và định, nếu chúng ta chỉ nhìn một lần thấy nó như vậy rồi bỏ không nhìn nữa thì chúng ta có niệm mà thiếu định cái định nó không bền bỉ thì tuệ không sanh, niệm chỉ đóng vai trò ghi nhận thôi nhưng mà cái định là tố chất bền bỉ .

Nói tóm tắt: tứ đại trong cái nhìn thường thức đất nước lửa gió khác tứ đại trong cái nhìn của bản thể pháp như trong Vi Diệu Pháp lại khác và tứ đại trong cái nhìn của Thiền Quán ở đây nó lại có hàm nghĩa khác chúng ta nên phân biệt rõ điều này và đây cũng là phương cách giúp chúng ta tiếp xúc với thực tại, nắm bắt thực tại, ghi nhận thực tại, và sống với thực tại, và sống với thực tại đó nó lợi cho chúng ta rất nhiều để thấy rõ ba hiện tướng là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã./. 

Monday, October 22, 2018

Sáu pháp tưởng cần tu tập - TT Giác Đẳng

Kinh Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya - Chương 6 -XII. Phẩm Các Kinh Không Nhiếp - (123) Tham (3) (124) Tham 

Sáu pháp tưởng cần tu tập

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 18 tháng 9, 2017

Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Trong Tam Tạng kinh điển đưa ra nhiều danh sách về các phiền não. Trong Vi Diệu Pháp có 14 tâm sở hay 14 thuộc tánh bất thiện. Và khi đề cập đến những phiền não ở trong danh sách khác ngay cả trong Vi Diệu Pháp cũng đưa ra nhiều danh mục khác nhau. Trong Kinh Tạng những danh mục này rất phong phú.

Bài học hôm nay, Đức Phật đề cập đến tham, sân, si, phẫn nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố, xan lận, lừa đảo, man trá, phản trắc, ngoan cố, bồng bột, nông nỗi, mạn, thượng mạn, kiêu, phóng dật. 

Bây giờ, chúng ta cứ hình dung trong thế giới màu sắc người ta có những màu căn bản và những màu pha lẫn, lấy ví dụ như khi chúng ta học về computer có 3 màu căn bản đó là màu đỏ, màu xanh lá cây, và màu xanh nước biển. Ba màu đó là 3 màu chính, nếu màu đỏ đi với màu xanh lá cây thì tạo ra màu vàng, màu đỏ đi với màu nước biển thì tạo ra màu tím, màu xanh nước biển và màu xanh lá cây nhập lại tạo ra màu da trời. Từ 3 màu này chúng ta gộp chung với nhau tạo thành màu trắng, và người ta sẽ tạo ra 16 triệu màu khác nhau do sự pha màu.

Chúng ta thấy từ 3 màu tạo ra 16 triệu màu khác nhau. Thì ở đây, mình hiểu  đó là hiện tượng vật lý về quang học. Nhưng trên phương diện tâm lý cũng tương tự như vậy. Chúng tôi tạm mượn đó làm thí dụ là có những phiền não chính. Rất là thích thú khi chúng ta học vào Vi Diệu Pháp một tâm như tâm tham, tâm sân, tâm si mà chúng ta thường nói thì tâm đó có nhiều thuộc tánh bất thiện hay nhiều tâm sở bất thiện đi chung với nhau. Căn bản thì tất cả tâm bất thiện đều có những tâm sở bất thiện biến hành ở trong nhóm si phần. 

Cuộc sống là một sự hỗn hợp nó kết cấu bởi nhiều thành tố khác nhau và đây là A kia là B, A+B thành C. Tương tự như vậy chúng ta gọi là thiên biến vạn hóa. Phiền não có rất nhiều thứ phiền não như Đức Phật dạy ở trong kinh Tạng căn bản có tham sân si đọc ở đây thì có danh sách là tật đố, man trá, não hại v.v.... Điều này chúng ta cũng phải để ý là liệt kê của những phiền não nó có nhiều sự khác biệt, một tâm man trá nó là một sự hỗn hợp pha lẫn bởi nhiều thứ.

Về từ vựng "sanna" giải thích như sau: 
 - Sanna dịch là nhận biết
- Nhận là nhận ra một cái gì đó mình từng biết từng trải.
- Thức là biết

Từ vựng "nhận thức" đúng nghĩa theo tiếng Anh là "conception". Và cũng đúng với khái niệm ở trong Vi Diệu Pháp và khái niệm ở trong kinh Tạng tức là "biết cái đã từng biết".

Sáu pháp tưởng này khi áp dụng vào pháp hành một hành giả phải y cứ nhận thức của mình trên một cái gì đó mình đã từng trải nghiệm. 

Nói cho rõ ràng,  một vị Tỳ Kheo hay một vị Sadi đi tụng kinh cầu siêu nhìn thấy quan tài hay thấy xác chết khi trở về phòng ngồi thiền thì nhớ lại hình ảnh đó mình có thể quán tưởng thân mình rồi cũng sẽ giống như vậy. 

Dĩ nhiên, khi chúng ta nói mình nhớ lại không có nghĩa là nhớ lại cái gì rất là lâu có thể là năm trước, có thể là tháng trước, giờ trước, hoặc giả chỉ mới mảy may nào đó thời gian vừa qua.

Nhưng ở đây, pháp tưởng (sanna) là cái gì mình nhận định từ kinh nghiệm đã trải qua ở trong cuộc sống, và khi tiếp xúc với việc đó thì ngay trong giờ phút tiếp xúc là mình chỉ mới tiếp xúc thôi thì khi nó vừa đi qua chúng ta có thể nhìn lại. Giả xử tâm của chúng ta hồi nãy đang vui nhưng sau vì có chuyện gì đó tâm lại bực bội buồn phiền, rồi bây giờ nó trở nên tự nhiên. Thì hành giả có thể nhìn thấy ở đó tâm mình sáng nay có thay đổi vui buồn đó là vô thường. 

Cảm thọ cũng vậy và tất cả mọi thứ đều vô thường dựa trên cái mình đã từng trải qua ở trong giây lát hay ở trong một ngày.

 Thật sự mà nói, khi đề cập đến dĩ vãng người ta đề cập đến một quá khứ đã qua rất lâu như vài ba năm trước hay một cái gì đó kết thúc và bây giờ nó là một bóng mờ ở trong tâm tưởng của mình, cái đó gọi là dĩ vãng, và chữ quá khứ người ta quan niệm như vậy. 

Nhưng với Phật Pháp quá khứ là cái gì đã xảy ra, có những quá khứ đã hoàn thành, có những quá khứ còn tiếp diễn, tức là vừa mới xảy ra bây giờ vẫn còn. 

Nói chung, với Phật Pháp thì chữ tưởng bao hàm cả quá khứ hoàn thành và quá khứ tiếp diễn, nhưng quá khứ đó đủ để chúng ta nhận định, đủ để chúng ta thấy 

Đặc biệt trong trường hợp những gì mới xảy ra, như hồi nãy chúng tôi đề cập đến một người ở trong sự tu tập chánh niệm đủ bén nhạy thì có thể nhận ra được là hồi sáng thức dậy tâm mình an lạc rồi mình nghe một cú phone về chuyện gì đó làm tâm mình buồn phiền, rồi sau đó mình tâm mình ổn định lại, thì nếu nhìn lại trạng thái tâm của chúng ta trong thời gian ngắn chúng ta thấy đúng là vui đó, buồn đó, an lạc đó, phiền não đó, sanh đó, diệt đó, mình thấy nó biến đổi, như mây trên trời như cá dưới nước, và vạn hữu  là một dòng chảy mà dòng chảy đó là sự tiếp nối của sanh diệt, và chúng ta thấy tự tánh như vậy bản chất như vậy.

1 - Đầu tiên Đức Phật dạy tu tập pháp niệm tưởng vô thường. 

Pháp tưởng đây là sự nhận thức, chúng ta nhận thức về sự biến dịch hay nhận thức về sự thay đổi. Ở trong sự nhận thức về sự thay đổi chúng ta không đánh giá không phê bình mà chúng ta chỉ ghi nhận. Ghi nhận ở đây là sự ghi nhận phải sắc bén, cái ghi nhận của chánh niệm, cái ghi nhận của cái gì rất là tỉnh táo. Nhiều lúc chúng ta nghĩ cái đó nó đến, nó ở lại và nó nằm yên tại đó, không như vậy, thật ra thì có rất nhiều thứ đến trong đời sống chúng ta nhưng nó không nằm yên ở đó, một bình hoa mình cắm rất đẹp để trên bàn thờ hay trên bàn làm việc chúng ta nhìn thấy bình hoa đó nằm yên, thật ra nó không nằm yên, từ lúc cắt cành hoa để vào trong bình thì tự nó đã có quyết định là hoa đó chỉ tồn tại ở trong một thời gian nhất định hai ngày ba ngày, tại vì nó bị cắt rời cây của nó và bị ngâm trong nước thì nó phải có tuổi thọ nhất định.

Một buổi sáng thức dậy mình rất phấn khởi ở thân ở tâm hay một trạng thái rất khỏe mạnh ở thân. Thì dù là thân dù là tâm chúng ta cũng nên hiểu nó có giới hạn về thời gian của nó, chúng ta không thể khỏe hoài mà có lúc mệt, tâm của chúng ta không an lạc hoài mà nó sẽ thay đổi.  Cái khả năng để thấy vạn pháp vốn biến dịch, vốn không đứng yên không nằm yên một chỗ thì nó có thể hiểu bằng một cách nhỏ nhất và nhỏ nhất ở trong những trạng thái thay đổi chóng mặt, thay đổi liên hồi của tâm tư chúng ta cho đến thế giới này. 

 Nếu chúng ta có dịp đọc các bài viết liên quan đến thiên văn học chúng ta sẽ thấy cả vũ trụ này không có một vật thể nào nằm yên, từ các hành tinh cho đến định tinh, như mặt trời hay cả một dãy thiên hà như Milky Way, một dãy ngân hà chẳng hạn. Tất cả cái đó mình nhìn lên bầu trời hồi nhỏ cũng dãy ngân hà đó bây giờ mình nhìn cũng dãy ngân hà đó mình nghĩ nó nằm yên, không phải, nó luôn luôn có sự biến dịch liên hồi, ở trong sự biến dịch đó có những thứ này xoay quanh thứ khác, có những thiên thể quyến lại nhau trở thành một quần thể. Nhưng mà rồi dù nó lẻ loi cô độc đi một chiều như những sao chổi hay đi theo đường qũy đạo của một hành tinh đi nữa thì rồi nó cũng luân lưu cũng vận hành cũng thay đổi liên tục, thay đổi vị trí, thay đổi từ bản chất tuổi thọ của nó, mặt trời rồi cũng sẽ bị hủy diệt, trái đất cũng bị hủy diệt, thiên hà cũng diệt, ngay cả những black hole cũng bị diệt. Đó là chúng ta nói đến cái gì rất rộng, rất cao, rất xa ngày nay ở trong thế giới này được biết.

Đặc điểm của sự vô thường là chúng ta không cần phải suy nghĩ phải đánh giá mà chúng ta chỉ cần dùng chánh niệm. Chánh niệm tức là khả năng tỉnh táo ghi nhận như hơi thở vô hơi thở ra, ghi nhận những cảm giác khổ, lạc, ưu, bi, hỉ, xả, ghi nhận những thay đổi ở chung quanh. 

Ban đầu chúng ta chỉ thấy được những thay đổi lớn, ví dụ như một người thân mất đi, hay một vật nào đó chúng ta sài đang tốt như cái tủ lạnh đang tốt bây giờ bị hỏng, rồi dần dà chúng ta có thể ghi nhận được cái tương đối bình thường hơn như một bình hoa trưng rất đẹp vài ba ngày hoa tàn, thời tiết chung quanh chúng ta sáng nắng chiều mưa, tâm tư chúng ta như vậy, nhưng mà rồi chúng ta cũng thấy được dần dà sự vô thường đó lại càng gần càng rõ hơn như hơi thở ra vào, như cảm giác vui buồn, như những sanh diệt chợt đến chợt đi.

 Ngày xưa người ta dùng câu "bóng câu qua cửa sổ", bóng câu là con ngựa chạy ngang qua cửa sổ, tại vì khung cửa sổ là một không gian hẹp cho chúng ta một cái nhìn ở một mảng giới hạn và bóng ngựa đi qua cửa sổ chúng ta thấy nhanh hơn mặc dầu nó cũng vậy, hơn là chúng ta nhìn ở bên ngoài không xuyên qua cửa sổ, cái gì hiện ra nơi cửa sổ rồi nó biến mất khỏi cửa sổ rất là nhanh không giống như chúng ta nhìn chiếc máy bay bay trên bầu trời hay chúng ta nhìn một con ngựa chạy bên ngoài. 

Ví dụ "bóng câu qua cửa sổ" là hình ảnh rõ ràng để hiểu một khi dựa trên cái nhìn của chúng ta trên một khung hình, một lãnh vực nào đó như thân, thọ, tâm, pháp, chúng ta sẽ nhận ra được những thay đổi rất nhanh, hơn chúng ta tưởng.

Chúng ta bình thường rất chung thành bảo vệ cảm giác của mình, ai làm gì cho mình vui mình cảm thấy thương thấy qúi người đó, ai làm gì mình buồn mình giận người đó. Đối với tất cả chúng ta cái quan trọng là cái vui cái buồn, nhưng một khi hành giả tu tập chánh niệm lâu hành giả mới thấy cảm thọ vui buồn của chúng ta không ổn định. Người hành giả có thể buổi sáng rất thích am thất của mình để tu thiền vì có cây cao trời mát mẻ nên thơ, nhưng buổi trưa cảm thấy nóng nực, cảm thấy buồn chán, buồi chiều khi tiếng côn trùng kêu cảm thấy rất não nùng cảm thấy không thích thú gì với am thất thiền thất của mình, nhưng thiền thất chỉ là thiền thất thôi, buổi sáng buổi trưa buồi chiều cho mình cảm giác khác nhau. Đó là ở bên ngoài, còn ở trong tâm chúng ta cảm giác lại rất là vô chừng.

Và ở đây, trong bước đầu tiên của một người tu tập chúng ta không nhất thiết phải đặt quá nặng sự phê phán mà chỉ là ghi nhận, ghi nhận sanh và diệt, ghi nhận đến và đi, ghi nhận sự hiện hữu và sự biến mất của hiện hữu, rất dễ dàng để chúng ta nhận thấy sự thay đổi.

Như chúng tôi làm việc ở trong paltalk lâu lâu chúng tôi gặp lại một số qúi Phật tử những người đã từng làm việc, ngày hôm qua chúng tôi đến chùa Từ Quang trong chương trình 3 ngày trại hè của Giáo Hội, năm nay Giáo Hội đặc biệt tổ chức sinh hoạt trại hè ở 3 nơi, ngày đầu học về lịch sử và những công việc quan trọng tại chùa Huyền Quang, ngày thứ hai sinh hoạt dạ ngoại ở Lake Tahoe học kinh Pháp Cú, và ngày cuối cùng của trại hè tại chùa Huyền Quang. Tại chùa Huyền Quang chúng tôi gặp một vài Phật tử trong đó có cô Dạ Lan, cô là một Phật tử chúng tôi có sinh hoạt vào năm 2000 lúc đó phong trào paltalk đang phát triển nhiều người biết đến, cô Dạ Lan là người mời chúng tôi vào rơom Thảo Luận Phật Pháp Online buổi tối để giảng pháp, thì khi nói chuyện với cô nhìn lại thoáng đã 17 năm rồi, từ năm 2000 cho đến năm nay là 2017. Thời gian đi qua rất nhanh, nhanh đến mức độ đôi khi mình cũng không nghĩ thời gian nhanh như vậy,17 năm là dài lắm, qua bao nhiêu là thay đổi, đời sống là một dòng chảy liên tục, dòng chảy đó là một sự tiếp nối sanh và diệt. 

Chúng ta nhìn dòng sông tưởng nó là dòng sông muôn thuở, dòng sông là vậy, nó mãi mãi là vậy nhưng ở trong lưu lộ của dòng nước thì nó luôn luôn thay đổi biến dịch, nước trong đó đã đi qua biết bao nhiêu là ghềnh thác, từ non cao chảy ra biển cả và nó đã đi qua không biết bao nhiêu và nó cộng lẫn không biết bao nhiêu thứ và tạo nên một dòng sông. Chúng ta thì rất hững hờ nhìn dòng sông chỉ là dòng sông, mình thấy dòng sông nó luôn luôn là như vậy cuộc sống nó phải là như vậy. 

Thì khả năng để dám mở mắt ra, dám nhìn, dám nhận nó đã thay đổi, nó là vô thường, và nhất là ở trong tâm tư của chúng ta nhận thức sự vô thường dựa lên trên kinh nghiệm mình đã từng trải, và kinh nghiệm đó chúng tôi nhắc lại là không phải là của 10 năm trước, 15 năm trước, 1 năm trước, của tháng trước mà ngay có thể là một vài tích tắc, một vài giờ trước, từ sáng cho đến bây giờ, hay từ trưa cho đến chiều chúng ta đã cảm nhận được sự vô thường.

2 - Pháp thứ hai: tưởng về khổ trong vô thường

Pháp kế tiếp về tưởng, Đức Phật Ngài dạy chúng ta tưởng về khổ ở trong vô thường.

Khổ trong vô thường là một liên hệ khác giữa chúng ta và đại tự nhiên. Ở trong thế giới của đại tự nhiên mọi việc đều biến dịch đều thay đổi nhưng sự thay đổi đó làm chúng ta khổ, tại vì sự an lạc của chúng ta nằm ở chỗ ổn định, an lạc của chúng ta là sự đặt để. 

Chúng tôi lấy một ví dụ, thử nghĩ hôm nào mình mời một người lạ về sống trong căn nhà của chúng ta, khi họ về sống chung căn nhà thì vốn cái bàn đặt chỗ này, bình hoa để chỗ nọ, và mình cảm thấy an lạc như vậy, mình đi đâu về bước vào căn phòng cảm thấy vui tại vì nó sắp theo ý mình nhưng bây giờ có một người đến làm xáo trộn những thứ đó lúc đó chúng ta mới thấy sự thay đổi đó làm cho chúng ta phiền. Tất cả những pháp như phiền não, bỏn xẻn, ganh tị đều là sự đe dọa của thay đổi, cái của mình mà người ta lấy đi, hay cái của mình không còn giá trị lớn tại vì người ta có cái giá trị lớn hơn của mình, rồi kiêu mạn, rồi man trá tất cả những điều đó đều là những phản ứng, cái phản ứng trong vô hình chung mà chúng ta không có biết là nó đến từ cảm giác chúng ta muốn mọi thứ nó nằm yên như vậy.

Chúng ta có khổ không? Chúng ta bỏ quá nhiều sức lực, bỏ quá nhiều nỗ lực để đạt được điều gì đó và khi đạt đến điều đó chúng ta chỉ muốn nó nằm yên tại đó nhưng nó không nằm yên. Tương tự như một người rất thích mua một cái điện thoại cầm tay mới tối tân, bỏ bao nhiêu tiền bạc để mua nhưng ngay khi mua về vài bữa sau người ta ra cái mới khác cái của mình không còn mới nữa, nó không còn tối tân nữa, bây giờ lâu lâu chúng ta cầm lại phone cũ nó là bài học rất tốt, ở trong giờ phút nào đó chúng ta rất nhiệt thành rất tha thiết mong mỏi để mua cái phone đó tại vì lúc đó nó làm rất tối tân hiện đại nó có nhiều điểm đặc trưng mà chúng ta nghĩ không phone nào có được v.v... Bây giờ cầm lại thì nó lỗi thời, ngay cả sài nó cũng khó khăn, người ta nhìn thấy nó cũng cũ kỹ lỗi thời và nó không có giá trị gì với chúng ta hết. 

Thì ở đó, vô thường khổ, tại sao khổ, khổ ở đây không phải là vò đầu bức tóc mới là khổ, mà khổ ở đây là sự thất vọng, sự chán nản, sự lãnh đạm bởi vì nó không còn là nó nữa, chúng ta thất vọng vì nó. 

Một lần, có một diễn giả đến chùa nói chuyện về một tác phẩm văn học và vị này bỏ ra 5 phút để nói một lời ở trong một bài hát của Trầm Tử Thiêng, ở trong đó có câu "Duờng như trong em ta có điều tuyệt vọng", vị diễn giả này đã nói câu đó rất thú vị, vì không phải ở trong tình yêu, không phải là ở trong cuộc sống bình thường mà hầu như ở trong tất cả mọi thứ gì mình muốn đạt đến thì mình mong cái cốt lõi của nó, mình mong nó có sự hoàn hảo của nó, mình mong nó có một cực điểm, nó phải tốt hơn hết, nhưng kỳ thật khi mình đạt đến chỗ đó thì mình thấy giống như trong kinh Phật dạy như một cây chuối hay một củ hành cứ lột hết lớp vỏ này sang lớp vỏ khác, hết lớp này sang lớp khác cuối cùng thì cái gọi là củ hành chỉ là từng lớp từng lớp một và mình lột hết thì nó trống rỗng, chữ trống rỗng cũng là ý nghĩa chữ dukkha là ý nghĩ của sự khổ, và cây chuối cũng vậy chúng ta lột hết lớp này sang lớp khác. 

Đời sống cũng vậy nó là sự đắp đổi liên hồi, đời sống nó là một hỗn hợp là một sự pha lẫn của nhiều thứ kết thành ở trong đó có vui, có buồn, có thăng, có trầm, có cái rõ ràng, có cái mơ hồ, nó trộn lẫn với tất cả mọi thứ chúng ta thì mong tìm một cái gì đó tối hậu, đi tìm cái gì đó gọi là tuyệt đối, cái gì tuyệt vời, cái gì tốt nhất, cái gì đẹp nhất, cái gì hoàn hảo nhất.

 Không có cái hoàn hảo ở trong cuộc sống, thân của chúng ta, nhận thức của chúng ta vốn đã chập chờn rồi thì cuộc sống lấy gì ổn định. Thành ra cái nhìn của một hành giả tu tập thì cái gọi là rỗng không, cái gọi là bất toàn, không hoàn hảo, cái gọi là không ổn định, nó đến từ trạng thái vô thường và trong cảnh trạng huống vô thường này rất dễ dàng để chúng ta nhận thấy bởi vì cuộc sống luôn luôn biến dịch, bởi vì cuộc sống luôn thay đổi, mình đòi hỏi mọi thứ là hoàn hảo, mọi giá trị đứng yên, là tuyệt đối, là vĩnh viễn, đó là do sự ngây thơ do chúng ta muốn nó như vậy rồi chúng ta không bao giờ được như vậy. 

3 - Quán tưởng thứ ba là quán tưởng sự vô ngã trên khổ não. 

 Điều này trong kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật dạy rất rõ ràng: 

- Này Chư Tỳ Kheo, sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, thức uẩn là vô ngã không phải là của ta. Này các Tỳ Kheo, nếu các uẩn ấy thật là của ta thì người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. Này các Tỳ Kheo, các uẩn thật là vô ngã nên người đời không thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia.

Gọi là hữu ái, gọi là vô ngã không cần phải triết lý, đơn thuần nếu nó là của mình thì nó phải là theo ý mình, ví dụ mình nói thân là thân của mình thì mình muốn nó khỏe hoài không bịnh, trẻ hoài không già, tươi tỉnh hoài không có trạng thái ủ dột, nếu ra lệnh được thì thân đó là của mình. Nhưng thật sự nó không phải là của mình, nó có những tàn phai, nó có những thay đổi, nó có những xáo trộn không nằm trong sự kiểm soát của mình, mình không thể bảo nó như thế này hoặc đừng như thế kia, thì đó là bản chất của vô ngã. Tâm mình cũng vậy, mình đinh ninh thọ đó, tưởng đó, hành đó, thức đó, cảm giác đó, nhận thức đó, hành xử đó, giác quan đó là của mình là của ta, nhưng chúng ta ngồi nhìn kỹ bây giờ mình nói thức uẩn, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ, thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác những thứ đó nó có hoàn toàn nằm ở trong sự điều khiển của mình không?  -  Không. 

Cái gì mình thấy không nhất thiết thấy cảnh đẹp hoài, chúng ta cũng thấy những điều không đẹp, nghe cũng không phải nghe những gì tốt đẹp hoài có những cái chúng ta nghe rất buồn nản dù không muốn cũng phải nghe, ví dụ đôi khi mình nói điện thoại có những người mình không muốn nghe mà vẫn phải nghe. Do vậy đời sống này, chữ vô ngã theo Đức Phật dạy là nếu cái đó là của ta thì mình có thể nói nó phải như thế này và đừng như thế kia, nhưng bởi vì mình không thể nói là nó phải như thế này phải như thế kia nên nó là vô ngã. Vì vậy, ở đây pháp thứ ba tưởng là sự vô ngã trên khổ não.

4 - Pháp thứ tư là quán tưởng đoạn tận. 

Đoạn tận ở đây nằm trong ý niệm về tư duy, ba tà tư duy của chúng ta đó là đi tầm cầu cái gì mình thích thú: 
- suy nghĩ đến cái gì mình ham muốn, 
- suy nghĩ cái gì thuộc về sân hận, 
- suy nghĩ cái gì thuộc về não hại.

Ba trạng thái này vốn là hiện tượng tự nhiên của tâm chúng ta, khi nói đến đi tầm cầu cái gì mình ham muốn thì nên hiểu bản chất tâm của chúng ta, chẳng hạn suy nghĩ món ăn gì đó ăn làm sao cho ngon, mặc thì mặc làm sao cho đẹp, làm cái gì cho mình được thỏa mãn, làm cái gì cho mình được thích thú và liên tục trong đời sống chúng ta đi tầm cầu những cái như vậy trong cuộc sống. Một ngày từ sáng đến chiều tùy theo cách sống của mỗi người nhưng nói chung là chúng ta luôn luôn đi truy cầu cái gì vừa ý mình thoả mãn cho sự ham muốn.

 Nhưng cũng có người vì sự nghèo nàn nào đó của nội tâm hay vật chất thì luôn luôn suy nghĩ đến cái chúng ta bất bình cái chúng ta bất mãn cuộc sống, sự bất mãn đó mình càng nghĩ thì càng lớn. Chuyện này là một bi kịch muôn thuở của cuộc sống một người nào đó họ chỉ làm một việc mình không hài lòng là mình đem cả lý lịch từ đời cha ông của họ, tất cả cuộc sống của họ, từ chi tiết cho đến đại cương, từ cái đi đứng nằm ngồi của họ, từ cử chỉ hành động của họ ra phê phán, mình cứ nhai đi nhai lại nói tới nói lui để cuối cùng mình đưa ra hình ảnh người đó là một con quái vật. Thật ra thì người đó cũng là một con người giống như mọi người khác nhưng do sân tâm của chúng ta nhiều quá cứ nghĩ tới nghĩ lui hoài. 

Gìống như trong trường hợp thương hay thích một người nào đó thì mình mình nghĩ đến mái tóc tướng đi của người đó cái gì cũng đẹp cũng thích hết. Mình thích cái gì thuộc về tham, mình luôn luôn nghĩ rất nhiều, rất nghĩ kỹ, rất lung, rất thiên biến vạn hóa để có nhiều điểm mình thích thú. 
Nhưng cái gì làm bực bội thì mình nghĩ nhiều chuyện để bực bội, và hận thù cũng vậy. Hận thù thì luôn luôn là chuyện bé xé to, hận thù luôn luôn là cột kết, là oan kết và cái oan kết về hận thù càng nghĩ càng nói thì nó lại càng lớn thêm.

Tư duy hay ý nghĩ của chúng ta nên hiểu nó như bèo ở trong ao, nó luôn luôn lan nhanh lớn mạnh ra chớ không nằm yên một chỗ. Người tu tập nên ý thức bản chất tự nhiên của tâm, điều này không ai có thể nhắc mình mà chính mình phải nhắc mình. Lấy ví dụ, ý muốn của mình giống như bèo ở trong ao hay giây leo lan nhanh, tâm sân hận bực bội của mình nó cũng lan nhanh nó cũng như bèo, mình thoáng không để ý nó có thể phủ cả mặt hồ, ai có nuôi bèo hay có thả một vài tai bèo ở trong ao thì biết nó cũng lan nhanh mọc lớn tăng trưởng rất nhanh.

Hận thù cũng vậy, trong kinh Pháp Cú Đức Phật nhắc chúng ta khi mình khởi lên thiện tâm thì cố gắng làm liền tại vì nếu mình không làm liền thì tâm thiện dễ bị mai một. Và khi khởi lên ác niệm một niệm bất thiện thì mình phải chặn nó liền, tại vì niệm bất thiện mình không dẹp thì nó sẽ lan nhanh.

 Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy, ý nghĩ về sự ham muốn, về sự bực bội khó chịu, về hận thù cũng lan rất nhanh. Và khả năng của một người tu tập là  khả năng có thể quán tưởng sự đoạn tận điều đó, do suy nghĩ của mình, ví dụ như mình đang rất thích cái gì đó mình đang bám víu cái gì đó, mình nghĩ như thế nào để mình có thể để cho dục của mình không lan nhanh. Và khi sân hận cái gì đó thay vì mình cứ theo phóng đại nó mình làm cho sân tăng trưởng sân sanh khởi thì mình suy nghĩ như thế nào cho nó giảm thiểu. 

Chúng tôi lấy một ví dụ, Ngài Ajahn Sumedho một vị tu sĩ người Hoa Kỳ sang Thái Lan tu tập với Ngài Ajahn Chaa, có một thời gian không biết vì lý do gì tự nhiên nhớ lại quá khứ vài ba năm trước lúc có vợ và sống bên Mỹ, hai vợ chồng sống với nhau có sự bất đồng cãi vả dẫn đến ly dị, ly dị xong vẫn còn hục hặc lời qua tiếng lại đủ thứ chuyện. Ngài qua Thái Lan tu tập cứ bực bội người vợ cũ, và trong sự tỉnh giác của một vị hành giả Ngài Ajahn Sumedho nghĩ mình không nên để việc quá khứ đó phiền hà làm cảng trở sự tu tập tại vì nó không có lợi gì hết, Ngài Ajahn Sumedho đã viết một bức thư cho người vợ cũ ở Mỹ để xin lỗi và nói bây giờ mình đã qua Thái Lan tu chỉ muốn một điều là trong lòng không một sự giận hờn một sự trách móc gì, nếu trước đây có quãng đời thường sống chung từng chia sẻ cuộc sống có cái gì đó không vui với nhau thì xin lỗi. Ngài Ajahn Sumedho viết lá thư gửi đi không mong được trả lời mà chỉ viết lá thư gửi đi với lời xin lỗi để cho tâm hận thù oan trái không còn, nhưng như một phép màu, một thời gian sau Ngài nhận được lá thư của người vợ cũng có những lời xin lỗi thái độ tương tự như vậy. 

Thì đó là cái khôn của bậc thiện trí. Vì biết rằng dục tư duy, sân tư duy, hay hại tư duy là bọt bèo lăng nhăng nếu chúng ta không khéo sẽ để cho nó tràn ngập và ngự trị trong lòng và chúng ta không làm được chuyện khác. 

Đời sống con người có nhiều phiền muộn, như đơn giản là mình đi đến chùa tu học thoải mái tự nhiên có ai nói dèm pha rằng ông A bà B nói xấu mình rồi mình khởi tâm oan trái, rồi mình lao vào trong một quãng đời bao nhiêu phiền hà, bao nhiêu hệ lụy, bao nhiêu những phiền não cứ cột với người đó lời qua tiếng lại. 

Làm trụ trì trong chùa chúng tôi biết có nhiều sự gây gỗ giữa qúi Phật tử trong chùa, có nhiều vị nói nếu chúng tôi can thiệp thì xong, mà không, chúng tôi không can thiệp, chúng tôi biết một chuyện rất rõ là những oan trái phiền phức nó sẽ tiếp tục trừ phi những vị đó muốn tu tập còn chuyện họ muốn hơn thua tiếp tục thì không bao giờ gỡ ra vì điều đó là cái gì thâm căn cố đế ở trong tâm tư chúng ta không bao giờ gỡ ra được, nó vậy, cuộc sống nó là như vậy.

Thành ra quán tưởng đoạn tận là mình làm sao thấy được sự nguy hại của dục tư duy, của sân tư duy, của hại tư duy, và tự mình phải chấm dứt, tự mình phải gỡ ra, tại vì mình cột mình phải gỡ ra, và mình phải vớt những tai bèo đang lăn tăn ra khỏi làm tâm của chúng ta bị bao phủ bị vấn đục. Đó là cái khuôn trong cuộc sống của mỗi người, mỗi người phải tự cứu mình ra khỏi vũng lầy, khỏi đầm lầy của đời sống ở trong đó nó tạo cho mình nhiều sự khổ đau, mà đôi khi lại nghiệt ngã với chính mình bắt mình phải trải qua điều đó là do chính mình.

5 - Pháp tưởng thứ năm là pháp tưởng ly tham hay gọi là pháp tưởng của sự nhàm chán.

Khả năng không dính mắc không bám víu dựa lên trên một kinh nghiệm lớn của chúng ta, chẳng hạn chúng ta bị nghiện rượu hay nghiện đánh bài hay  dính mắc một cái gì đó thì để cai bỏ để nhàm chán điều này cần qua một quá trình nỗ lực, một nỗ lực là cũng đi đánh bài một thời nào đó làm cho mình phấn khởi thích thú nhưng bây giờ tự nhiên thấy được cái hại của đánh bài từ tư cách cá nhân cho đến chuyện xáo trộn của đời sống và đổ vỡ gia đình bây giờ nghe đến casino đến bài bạc không có cảm hứng gì hết, điều đó người Mỹ gọi là disinclination tức là chúng ta nhàm chán, thấy chẳng hoan hỉ thích thú gì hết. 

Chúng tôi có nói chuyện với một thanh niên năm nay 30 tuổi, vị đó kể một thời theo băng đảng đi trộm cướp rồi bị tù, thời trai trẻ lớn lên 17 tuổi tự nhiên cảm thấy đó là cuộc phiêu lưu, phiêu lưu là rủ nhau 5, 7 người đi cướp của người Việt, chưa đến nỗi giết người nhưng vào nhà cột trói người ta rồi bị bắt ở tù mười mấy năm trời được tha, bao nhiêu chuyện tàn tạ, bây giờ nhìn lại thấy mình chơi với bạn xấu thật là nguy hiểm. Thì chúng ta nhìn lại điều đó, lúc mình đang lao vào thấy nó hấp dẫn, thấy phấn khích, thấy rất vui, năm dài tháng rộng nhìn lại thì thấy ngán ngẩm phải chi lúc đó mình biết thì mình đã không dự vào.

Ở trong kinh có ngụ ngôn về các vị Thiên Sứ, những người làm ác sinh vào địa ngục, Diêm Vương hỏi họ có thấy những vị Thiên Sứ không, Thiên Sứ là Messenger là sứ giả, chúng ta thường nghe các vị trong các tôn giáo đề cập đến như Chúa Con hay Chúa Jesus hay là đấng tiên tri Muhammad là các vị sứ giả của Thượng Đế mang thông điệp đến loài người. 

Trong kinh Phật cũng đề cập đến những vị Thiên Sứ như vậy, nhưng những vị Thiên Sứ này không phải là một cá nhân mà đó là những hiện tượng của đời sống, sanh là một hiện tượng, già là một hiện tượng, chết là hiện tượng,  hình phạt khổ là một hiện tượng, những hiện tượng đó mang nhiều tín hiệu mang nhiều thông điệp cho đời sống mà chúng ta không nhàm chán nản, nếu mình nhàm chán thì mình đã không vướng vào. Thật ra khi đọc những bài kinh Thiên Sứ đó nhắc cho chúng ta khả năng của ly tham của nhàm chán.

6 - Pháp tưởng thứ sáu là tưởng đoạn diệt.

Quán tưởng về sự đoạn diệt một kinh nghiệm rất quan trọng của hành giả tu tập. Nhiều lúc chúng ta nên có khả năng vận dụng kinh nghiệm thực tại để hiểu xa hơn. Trong kinh có một số ví dụ như đặt gánh nặng xuống, mình gánh một gánh nặng quằn vai bây giờ mình đặt xuống. 

Hồi nhỏ khi mới vào chùa tu chúng tôi rất thích đi bát bởi vì đi bát tức là có kinh nghiệm đi trì bình khất thực nhưng bởi vì còn nhỏ tay yếu. Chúng tôi ở chùa Pháp Bảo đi khất thực với Chư Tăng đi xa 6, 7 cây số, đi thì vui nhưng khi trở về thì mệt, vừa mệt mà bình bát nặng, hồi còn nhỏ mấy vị lớn lại không chỉ đầy đủ nên không có giây đeo bình bát thoải mái, tự mình bưng bình bát nặng bằng hai tay. Chúng tôi còn nhỏ thích xôi với bánh nhưng khi gần về tới chùa chừng 3, 4 cây số nếu lúc đó không có ai thì buông xuống liền vì nặng quá rất khó chịu, khi về tới chùa đặt bình bát xuống được thì thấy hạnh phúc, hạnh phúc vô cùng.

Thì ở đây, một khái niệm có thể hiểu về Niết-bàn giống như trường hợp mình nợ mà trả hết nợ tự nhiên trong lòng mình rất thanh thản, như trường hợp một việc gì đó đeo đẳng mình thời gian dài bây giờ dứt nó ra được, bỏ được tự nhiên mình thấy hạnh phúc, mình bị nhức răng bây giờ hết nhức răng thì hạnh phúc, gánh nặng quằn vai bây giờ đặt xuống thì hạnh phúc. Vì vậy khả năng của một người có thể nghĩ tưởng đến sự giải thoát hoàn toàn, nó liên tưởng đến những cái gì mình đoạn diệt mà tương lai không thể sanh khởi được.

Chúng ta nói về 6 pháp tưởng: 

1 - Tưởng vô thường tức là nhận thức về sự biến đổi trong đời sống, 
2 - Tưởng về khổ trong vô thường, là chúng ta phải nhận thức về sự bất toàn sự không hoàn hảo bởi vì do vô thường biến đổi mà ra 
3 - Chúng ta nhận thức về vô ngã trong khổ, bởi vì không ai muốn khổ nhưng mình không thể biểu nó như thế này hoặc đừng như thế kia do nó là vô ngã, 
4 - Chúng ta quán tưởng đoạn tận để dập tắt 3 tư duy đó là dục tư duy, sân tư duy và hại tư duy, 
5 - Chúng ta quán tưởng về ly tham để nhàm chán.
6 - Quán tưởng về đoạn diệt để nghĩ về sự chấm dứt những phiền não.

Sáu pháp này không đơn thuần để chúng ta suy tư mà là sự trải nghiệm, bởi vì khi nói đến sanna nói đến tưởng không phải là nghe người khác nói rồi mình suy diễn ra, không phải vậy. Khi chúng ta nói 6 pháp tưởng là mình phải đọc lại những kinh nghiệm của mình, vận dụng sự kinh nghiệm của mình, vận dụng sự từng trải của mình, vận dụng những cái gì mình đã trải qua trong cuộc sống để từ đó chúng ta nhận thức một cách sâu sắc, có rất nhiều thứ để chúng ta có thể nhận ra điều này trong cuộc sống. 

Bây giờ có một lúc nào đó mình ngồi lại nhìn tất cả những gì mình có ở trong căn phòng mình đang ở, những thứ mình đã vất vả đi tìm, nỗ lực đi kiếm mua về, lúc đó mình nghĩ là tốt nhứt thích nhứt, và bây giờ mình tự hỏi cảm giác của mình những thứ đó ra sao thì chúng ta sẽ thấy. 

Và khi nói đến pháp tưởng nó không phải là một đề tài của pháp học đơn thuần mà là một đề tài lớn của pháp hành của hành giả tu tập, một hành giả tu tập thiếu trang bị cho mình những pháp nhận thức như vậy chúng ta thật sự rất khó để nắm bắt được cái thực tại đúng nghĩa với thực tại, vì chúng ta nhớ tâm của chúng ta hay sống trong ảo tưởng, tâm chúng ta hay sống trong vẽ vời, và một cách đưa chúng ta trở về với hiện tại, một cách để đưa chúng ta tiếp xúc với thực tại đó là nhận ra đây là sanh, đây là diệt, đây sanh diệt, đây là vô thường, vô thường là sự mở đầu rất quan trọng.

Đó là vài điều chúng tôi muốn chia sẻ với quí vị ngày hôm nay./.