Hỏi: Một người tu thiền với trí tu mà không có kiến thức kinh điển của trí văn thì có đủ khả năng biết việc nên làm hoặc không nên làm chăng?
. (Bài giảng trong rơom Diệu Pháp, ngày 17 tháng 02 năm 2004 - Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng trả lời: Có lẽ là phần đông chúng ta đều quen thuộc với ý nghĩa của trí văn và trí tu. Trong Đạo Phật có nói đến 3 thứ trí tuệ mà ở trong chữ Hán gọi là văn huệ, tư huệ và tu huệ, chúng ta thường gọi là trí văn, trí tư, và trí tu.
Văn huệ được hiểu như một thứ trí do chúng ta lãnh hội từ lời dạy của người khác, từ sách báo, tức là từ cái gì chúng ta học hỏi được từ bên ngoài.
Tư huệ tức là trí tuệ do chúng ta suy tư thẩm nghiệm để thấy biết.
Tu huệ tức là trí huệ do sự tu tập cho lắng đọng phiền não, do chánh niệm, do định lực những thứ đó cho phép chúng ta nhìn thấy sự vật ở một cách khác đi. Thì cả ba trí này đều có vai trò đặc biệt của riêng mỗi thứ.
Câu hỏi của chúng ta đặt ra ở đây, bởi vì có một số các quan niệm, mà quan niệm này đặc biệt là có ảnh hưởng rất lớn ở trong thiền tông. Chúng tôi nghĩ rằng ngoài thiền tông ra thì một số nền đạo học của Trung Hoa và Ấn Độ đều có nói đến điểm này, tức là đạo là ở chỗ tự nhiên. Nói đạo ở chỗ tự nhiên tức là cái gì chúng ta sống rất tự nhiên, thậm trí trong thiền học nói là đói ăn, khát uống đó là đạo. Và một người có đủ tâm an tịnh thì có thể thấy được đạo, và biết được cái gì nên làm, cái gì không nên làm.
Tuy nhiên có một gợi ý rất quan trọng ở trong tập Sớ giải về luật tạng, có thể nói đây là một trong những tập sớ giải rất quan trọng, chúng ta có bản dịch là Ðại Thiện Kiến Lực, thì thưa quí vị, vị nào đọc qua sẽ thấy đó là bộ luật rất ly chi. Trong bộ luật này có nói đến một điểm, là ngay cả những bậc thinh văn đệ tử Phật, khi đề cập đến những gì cần phải làm ở trong giới luật của hàng xuất gia, thì vị đó cũng phải học hỏi. Có rất nhiều điều luật ở trong giới luật của hàng xuất gia liên quan đến Tăng già, liên quan đến nghi luật và những thứ này không thể nào mà tự ý biết được hay tự ý chuẩn phê được.
Nói một cách khác là vị đó phải có được một sự tìm hiểu nhất định, dĩ nhiên là đối với những vị có tuệ phân tích thì đưọc sự lãnh hội, cái thấy, cái biết của vị này rất bén nhạy. Vị này có thể nghe một cách thoáng qua là có thể hiểu được, tại sao làm như vậy, tại sao không lên làm như vậy.
Nhưng căn bản thì những điều chúng ta nên làm, hay không nên làm, nó liên quan đến giới luật của hàng xuất gia, hay một số luận định khác mang tánh cách qui ướt của xã hội, mà qui ướt của xã hội thì rất cần có một số kiến thức căn bản ở bên ngoài. Ngay cả một người rất hiền thiện ở trong xã hội này, lớn lên trong một xã hội mà mình là một công dân lương thiện, nhưng không có nghĩa là chúng ta, bản thân mình là một công dân lương thiện mà chúng ta không có bỏ thì giờ để tìm hiểu những luật lệ, có những luật lệ không nằm ở trong phạm vi thiện ác tự nhiên. Chúng ta sống ở một xã hội, có những đòi hỏi một số luật định về vấn đề xây cất, mình muốn cất nhà, mình phải theo một số những luật định nào. Thì việc đó không phải vấn đề chúng ta là công dân lương thiện hay không lương thiện ra mà chúng ta nói được, vấn đề là chúng ta phải có sự tìm hiểu luật đó đã được ban hành như thế nào, và năm trước như thế nào, năm nay có thay đổi gì không, và tất nhiên việc đó chúng ta không thể lấy tâm của chúng ta ra để phán đoán được, mà chúng ta phải có một sự hướng dẫn trực tiếp, học hiểu trực tiếp từ bên ngoài.
Như vậy thì ngay cả trong đời sống tương đối rất giản dị của người xuất gia, thì trí tu và trí văn đều hết sức cần thiết, nhất là liên quan đến giới luật của người xuất gia, có những điều luật người ta tạm biết, có những điều luật tạm không biết. Cái không biết, cái biết đó lệ thuộc vào cả hai thứ. Nhưng trí văn luôn luôn là điểm hết sức cần thiết, tức là những kiến văn chúng ta học hiểu được, thu thập được từ ở bên ngoài, từ kinh điển để lại, hay từ truyền thống, từ các vị A Xà Lê. Thì bao giờ cũng vậy, chúng ta tìm thấy được một tinh thần hết sức trung đạo khi chúng ta trả lời từng câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này.
Sở dĩ chúng tôi nghĩ rằng câu này cần được nêu lên, bởi vì có đôi lúc chúng ta tìm thấy những câu phủ quyết thẳng thừng là cái học ở bên ngoài, cái kiến văn nó không có lợi ích gì nhiều, chúng ta phải tu, hễ con người chúng ta thiện, thì tự nó có đủ khả năng để thể hiện. Nhưng chúng ta quên hẳn đi rằng có một số việc nên làm hay không nên làm, đặc biệt là quan hệ ở trong Tăng chúng và trong đời sống xã hội, thì những thứ đó đòi hỏi sự hiểu biết của chúng ta về phương diện kiến thức tổng quát ở bên ngoài, những qui ước, và những qui ước này vốn cũng không có hẳn là chúng ta có thể tỏ hiểu được qua trí tu, sự tu tập của mình. Đó là vài lời góp ý của chúng tôi.
. (Bài giảng trong rơom Diệu Pháp, ngày 17 tháng 02 năm 2004 - Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng trả lời: Có lẽ là phần đông chúng ta đều quen thuộc với ý nghĩa của trí văn và trí tu. Trong Đạo Phật có nói đến 3 thứ trí tuệ mà ở trong chữ Hán gọi là văn huệ, tư huệ và tu huệ, chúng ta thường gọi là trí văn, trí tư, và trí tu.
Văn huệ được hiểu như một thứ trí do chúng ta lãnh hội từ lời dạy của người khác, từ sách báo, tức là từ cái gì chúng ta học hỏi được từ bên ngoài.
Tư huệ tức là trí tuệ do chúng ta suy tư thẩm nghiệm để thấy biết.
Tu huệ tức là trí huệ do sự tu tập cho lắng đọng phiền não, do chánh niệm, do định lực những thứ đó cho phép chúng ta nhìn thấy sự vật ở một cách khác đi. Thì cả ba trí này đều có vai trò đặc biệt của riêng mỗi thứ.
Câu hỏi của chúng ta đặt ra ở đây, bởi vì có một số các quan niệm, mà quan niệm này đặc biệt là có ảnh hưởng rất lớn ở trong thiền tông. Chúng tôi nghĩ rằng ngoài thiền tông ra thì một số nền đạo học của Trung Hoa và Ấn Độ đều có nói đến điểm này, tức là đạo là ở chỗ tự nhiên. Nói đạo ở chỗ tự nhiên tức là cái gì chúng ta sống rất tự nhiên, thậm trí trong thiền học nói là đói ăn, khát uống đó là đạo. Và một người có đủ tâm an tịnh thì có thể thấy được đạo, và biết được cái gì nên làm, cái gì không nên làm.
Tuy nhiên có một gợi ý rất quan trọng ở trong tập Sớ giải về luật tạng, có thể nói đây là một trong những tập sớ giải rất quan trọng, chúng ta có bản dịch là Ðại Thiện Kiến Lực, thì thưa quí vị, vị nào đọc qua sẽ thấy đó là bộ luật rất ly chi. Trong bộ luật này có nói đến một điểm, là ngay cả những bậc thinh văn đệ tử Phật, khi đề cập đến những gì cần phải làm ở trong giới luật của hàng xuất gia, thì vị đó cũng phải học hỏi. Có rất nhiều điều luật ở trong giới luật của hàng xuất gia liên quan đến Tăng già, liên quan đến nghi luật và những thứ này không thể nào mà tự ý biết được hay tự ý chuẩn phê được.
Nói một cách khác là vị đó phải có được một sự tìm hiểu nhất định, dĩ nhiên là đối với những vị có tuệ phân tích thì đưọc sự lãnh hội, cái thấy, cái biết của vị này rất bén nhạy. Vị này có thể nghe một cách thoáng qua là có thể hiểu được, tại sao làm như vậy, tại sao không lên làm như vậy.
Nhưng căn bản thì những điều chúng ta nên làm, hay không nên làm, nó liên quan đến giới luật của hàng xuất gia, hay một số luận định khác mang tánh cách qui ướt của xã hội, mà qui ướt của xã hội thì rất cần có một số kiến thức căn bản ở bên ngoài. Ngay cả một người rất hiền thiện ở trong xã hội này, lớn lên trong một xã hội mà mình là một công dân lương thiện, nhưng không có nghĩa là chúng ta, bản thân mình là một công dân lương thiện mà chúng ta không có bỏ thì giờ để tìm hiểu những luật lệ, có những luật lệ không nằm ở trong phạm vi thiện ác tự nhiên. Chúng ta sống ở một xã hội, có những đòi hỏi một số luật định về vấn đề xây cất, mình muốn cất nhà, mình phải theo một số những luật định nào. Thì việc đó không phải vấn đề chúng ta là công dân lương thiện hay không lương thiện ra mà chúng ta nói được, vấn đề là chúng ta phải có sự tìm hiểu luật đó đã được ban hành như thế nào, và năm trước như thế nào, năm nay có thay đổi gì không, và tất nhiên việc đó chúng ta không thể lấy tâm của chúng ta ra để phán đoán được, mà chúng ta phải có một sự hướng dẫn trực tiếp, học hiểu trực tiếp từ bên ngoài.
Như vậy thì ngay cả trong đời sống tương đối rất giản dị của người xuất gia, thì trí tu và trí văn đều hết sức cần thiết, nhất là liên quan đến giới luật của người xuất gia, có những điều luật người ta tạm biết, có những điều luật tạm không biết. Cái không biết, cái biết đó lệ thuộc vào cả hai thứ. Nhưng trí văn luôn luôn là điểm hết sức cần thiết, tức là những kiến văn chúng ta học hiểu được, thu thập được từ ở bên ngoài, từ kinh điển để lại, hay từ truyền thống, từ các vị A Xà Lê. Thì bao giờ cũng vậy, chúng ta tìm thấy được một tinh thần hết sức trung đạo khi chúng ta trả lời từng câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này.
Sở dĩ chúng tôi nghĩ rằng câu này cần được nêu lên, bởi vì có đôi lúc chúng ta tìm thấy những câu phủ quyết thẳng thừng là cái học ở bên ngoài, cái kiến văn nó không có lợi ích gì nhiều, chúng ta phải tu, hễ con người chúng ta thiện, thì tự nó có đủ khả năng để thể hiện. Nhưng chúng ta quên hẳn đi rằng có một số việc nên làm hay không nên làm, đặc biệt là quan hệ ở trong Tăng chúng và trong đời sống xã hội, thì những thứ đó đòi hỏi sự hiểu biết của chúng ta về phương diện kiến thức tổng quát ở bên ngoài, những qui ước, và những qui ước này vốn cũng không có hẳn là chúng ta có thể tỏ hiểu được qua trí tu, sự tu tập của mình. Đó là vài lời góp ý của chúng tôi.
No comments:
Post a Comment