Trường Bộ Kinh - Dìgha Nikàya
33. Kinh Phúng tụng (Sangìti sutta)
PHÁP TÁM CHI 8.8
Tám thắng xứ
Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma ngày 17 tháng 6, năm 2019
Minh Hạnh chuyển biên
TT Giác Đẳng: Đề tài ngày hôm nay là một đề tài nói về chiều sâu của Thiền. Trong bảng dịch có vài điểm chúng ta cần lưu ý.
Trước nhất: Chữ thắng xứ .
- Xứ là đề mục niệm.
- Thắng xứ là đề mục niệm có tánh cách đặc thù.
Thật ra, trong nguyên văn gồm có hai chữ nhập lại với nhau đó là chữ abhibh-àvatana ( Abhibhāyatanāni ).
Chữ abhibhayati là chuyển hóa. Có nghĩa là đối tượng mình tập trung tâm định và có khả năng chuyển hóa là Abhibhāyatanāni.
Ví dụ như mình đi học và học một môn học nào đó, như ở Mỹ có môn dạy chuyên về cách điều khiển cá heo. Thật ra khi học môn này ra trường sự ứng dụng làm việc không bao nhiêu, mặc dầu có một số người rất thích cá heo, họ có thể tham gia trường của Hải Quân hay ở một vài khu giải trí như SeaWorld, ngoài ra họ không thể xử dụng trong lãnh vực khác được.
Khi chúng ta học về ngôn ngữ, học về vật lý, hóa học, học về điện toán, có những ngành phổ thông mình học ra trường mình có thể ứng dụng nhiều nơi.
Hoặc giả, Phật Giáo Tây Tạng, chương trình tiến sĩ Phật học gọi tắt là Geshe học 18 năm, ở trong 18 năm có những môn học mất rất nhiều thì giờ, như học ngành vẽ Mạn-dà-la 3 năm, hay học xử dụng pháp khí pháp cụ, những ngành đó cũng đặc biệt nhưng chỉ dùng trong một lãnh vực nào đó thôi, không xử dụng rộng như chúng ta học những môn khác. Lấy ví dụ như ở trong chùa có những vị bỏ ra rất nhiều thì giờ để học về đắp tượng hay làm thuốc, làm thuốc nhiều quá thì mở phòng thuốc từ thiện, hay làm tượng thì suốt cuộc đời chỉ làm tượng thôi, đó không phải môn học thù thắng, không phải môn học có thể đưa chúng ta đi xa, không làm một chuyển hóa lớn, hay chuyển hóa có thay đổi.
Riêng tám thắng xứ này hay 8 đề mục có khả năng chuyển hóa trong đề mục thiền định. Đây là bài học đặc biệt. Chữ thắng xứ đọc dịch từ chữ abhibh là một đề mục có khả năng chuyển hóa hay khả năng đi xa hơn.
Khi nói đến những điều này, ở trong bài kinh Trung Bộ Kinh bài kinh Mahàsakuludàyin Đức Phật Ngài dạy đây là những điều nằm ở trong tầm giác ngộ của Chư Phật, giống như 37 pháp trợ bồ đề. Nhiều vị Tăng bên Nam Tông giảng Thiền Quán là do Đức Phật giác ngộ, còn Thiền Chỉ thì ngoại đạo cũng giác ngộ được, và ngoại đạo giác ngộ về Thiền Chỉ họ không hiểu về 8 thắng xứ và 8 giải thoát.
Như hồi nãy chúng tôi nói mình học môn nào đó, thí dụ trị bệnh thì có nhiều thuốc đôi khi có những thuốc uống thấy công hiệu liền nhưng về lâu về dài nó không có những biến chứng thì đó là một chuyện khác nữa, chúng ta nói về đường dài đó là câu chuyện hoàn toàn khác, cái nhất thời rất khó phân biệt như câu chuyện đường dài thế nào thì con đường dài vẫn lợi lạc, nó vẫn thăng tiến vẫn đi tới được cái đó chúng ta gọi là những đối tượng có khả năng chuyển hóa. Chữ āyatanān chữ xứ ở đây chúng tôi tạm gọi là đối tượng thiền định, đối tượng của định tâm có khả năng chuyển hóa được. Tám thắng xứ này đặc biệt là những điều được Đức Phật Ngài giảng dạy trong sự giác ngộ của vị Chánh Đẳng Chánh Giác.
Điều thứ hai chúng tôi cũng muốn nói trong bản dịch tiếng Việt có câu:
- Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Câu dịch này cũng ổn.
Nhưng câu thứ ba và câu thứ tư:
- Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm.....
Thì câu đó rất là sai.
Cả bốn pháp quán tưởng đầu đều liên quan đến sắc, và nó không có cái gì gọi là vô sắc ở đó hết.
Câu đầu là: vị đó quán tưởng nội sắc và câu thứ hai là không quán tưởng nội sắc nhưng mà thấy được ngoại sắc.
Điểm đó rất là quan trọng.
Không phải là vị đó quán tưởng vô sắc ở nội tâm, cái mà mình không quán tưởng sắc ở nội tại khác với quán tưởng vô sắc ở nội tại
Chúng tôi cũng mong rằng qúi Phật tử để ý điều đó.
Điều thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, tuy bốn điều đề cập đến bốn màu sắc khác nhau, chúng ta gọi là những màu nguyên thủy, màu xanh, vàng, đỏ.
Đây là điểm rất thú vị, bởi vì loài người mãi trong thời gian sau này người ta mới tìm thấy trên thế gian này có nhiều màu nhiều sắc, đặc biệt trong lãnh vực điện toán, như máy vi tính của chúng ta bây giờ có 64 triệu màu, màn ảnh máy vi tính thời trước chỉ có 16 triệu màu. Ngay cả điện thoại cầm tay bây giờ có 64 triệu màu cho chúng ta những hình ảnh sắc nét màu sắc trung thực, rất đẹp.
Khi chúng ta nói có 64 triệu màu, thì thật sự không phải trên thế gian này có 64 triệu màu khác nhau, mà ở đó là một sự pha trộn màu này với màu kia. Và ba màu nguyên thủy con người mới khám phá về sau này là màu xanh, màu vàng, màu đỏ. Đức Phật trong cái nhìn của vị Chánh Đẳng Chánh Giác từ ngàn xưa Ngài đã dạy có 4 màu nguyên thủy, tức là ngoài 3 màu kia thì Ngài tính có thêm màu trắng.
Ở đây có tất cả 8 thắng xứ, hay là 8 đối tượng định tâm có công năng chuyển hóa.
Thì 4 cái đầu gồm:
- Hai đối tượng đầu là quán tưởng nội sắc thấy ngoại sắc.
- Hai đối tượng kế, thứ ba và thứ tư là không quán tưởng nội sắc mà thấy được nội sắc.
Thì mỗi một cặp như vậy, đối tượng một và hai khác nhau ở chỗ là thấy có hạn lượng và thấy không hạn lượng.
Và thứ ba thứ tư cũng như vậy, thấy có hạn lượng và không có hạn lượng.
Ở đây là một ở trong những cánh cửa rất hiếm hoi cho chúng ta biết về những hiện tượng gọi là jhàna nghĩa là sự thẩm thấu hay khi nội tâm an định miên mật, tập chú mạnh mẽ thì có những thứ tạo nên hiện tượng về tâm sinh lý.
Chúng tôi tạm lấy một ví dụ, trong thiên nhiên có rất nhiều loại dược thảo, nhưng không phải dược thảo nào mình ăn, uống vào cũng tạo cảm giác đê mê, mà có một số dược thảo mình ăn vào thì nó tạo cho cảm giác lạ.
Trong những đề mục vật chất, đề mục về sắc pháp, không phải đề mục nào mình tập trú vào cũng giống nhau, lấy ví dụ như chúng ta ngắm một đóa hoa hay nhìn một ngọn núi, hoặc ngắm sơn thủy hữu tình có tác dụng với tâm nhưng ở mức độ nào đó thôi.
Tuy nhiên, có điểm rất đặc biệt liên hệ đến đề mục định ở trong Thiền Chỉ (samadha). Ở đây, trong sớ giải của Trung Bộ Kinh, bài kinh số 77 có đề cập đến những hiện tượng liên quan đến nội sắc và ngoại sắc, chúng ta tạm gọi là nội sắc.
Trong sớ giải nói: vị đó dùng màu của đôi mắt để thấy được màu xanh, màu xanh của đôi mắt. (Chúng ta biết người Ấn Độ, người Aryan, một số người phương Tây đôi mắt họ màu xanh). Hay màu vàng của da đôi khi chúng ta gọi là màu ngà. Hoặc màu đỏ của máu. Những thứ đó được xem là nội sắc, đó là theo trong sớ giải.
Một vị tập trung vào đề mục định, mà gọi là đúng đề mục, chúng ta tạm dùng chữ là đúng tầng số, nó sẽ tạo nên hai hiện tượng: một hiện tượng đầu tiên là nimitta là quang tướng, hiện tượng thứ hai gọi là kiến giải.
Chúng tôi lấy một ví dụ, một đề mục định khi mình tập trung và tập trung đúng nó sẽ tạo thành một ấn tượng rất sâu sắc. Chúng ta tạm hiểu như vầy, nhiều lúc một vật thể hay một cảnh gì đó để cho chúng ta một ấn tượng sâu sắc và sau đó chúng ta nhìn cái này thì chúng ta lại liên tưởng đến cái kia.
Trong các cuộc nghiên cứu của tâm lý học Tây Phương người ta đặc biệt nói nhiều về phương diện này. Thí dụ có một người đội một chiếc nón màu xanh và họ làm cái gì đó cho mình có cảm tình có thiện cảm thì về sau này mình gặp người khác đội chiếc mũ màu xanh như vậy mình có cảm tình ngay lập tức, nhưng có người nào đó đội mũ màu đỏ mà họ làm cho mình khó chịu thì về sau này thấy ai đội mũ màu đỏ mình cũng khó chịu. Điều đó chúng ta tạm gọi là ảnh hưởng của nimitta gọi là ảnh hưởng của hiện tượng hay của tướng, và ảnh hưởng này thì thật ra nó là một ở trong những hiện tượng tâm lý đôi khi chúng ta rất khó biết.
Trong kinh ghi trường hợp, có một vị Tỳ Kheo đang niệm về đề mục xương, vị đó tập trung tâm định quán tưởng về xương, quán tưởng về hài cốt của mình, lúc bấy giờ có một người phụ nữ đi ngang vị này nhìn thấy người phụ nữ đó, một lát sau người chồng chạy đi tìm người phụ nữ đó đã hỏi vị Tỳ Kheo có nhìn thấy người phụ nữ đi ngang qua đây không, vị Tỳ Kheo đó trả lời một cách thành thật: "tôi có thấy một bộ xương đi ngang". Câu chuyện đó như một câu chuyện truyền đời ở trong Thiền Tông, và chúng ta tìm thấy trong Thanh Tịnh Đạo và ở trong sớ giải. Vị Tỳ Kheo này không phải nói quá đáng, nhưng bởi vì một khi mình đã thể nhập một trạng thái gì thì mình sẽ nhìn thấy trạng thái đó biến mãn ở trong nhiều hình thái khác nhau, một vị niệm đề mục xương thì vị đó thấy tất cả mọi người là xương, chỉ là những bộ xương di động thôi, đơn giản như vậy.
Thì ở đây, một vị tu Thiền Chỉ nếu sự tập trung có trình độ cao miên mật, có nghĩa là tập trú một cách hết sức là tập trung thì vị đó có thể biến mãn từ đề mục này bao trùm cả thế giới.
Chúng tôi lấy ví dụ cho dễ hiểu là một câu thơ của Nguyên Sa nghe rất phàm tục nhưng trên phương diện tâm lý thì nó lại rất rõ để chúng ta hiểu:
Áo nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc.
Áo nàng xanh, tôi mến lá sân trường.
Thì "Áo nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc" đó chỉ là lời thơ thường tình, đại khái một người đã tập trung vào một điểm nào đó mà tâm thể nhập rồi thì nó sẽ đạt đến tình trạng biến mãn, nó phủ sóng phủ qua những thứ khác, đó là một hiện tượng của tâm lý và hiện tượng của định lực.
Bây giờ có trường hợp, vị này nhìn vào nội tại quán thấy sắc nội tại. Hồi nãy chúng tôi nói màu xanh của mắt, màu vàng của da, màu đỏ của máu. Màu xanh, vàng, đỏ, những màu đó khi biến mãn từ phần nội tại qua ngoại giới thì đó là một điểm rất tự nhiên bởi vì bản chất của nội tâm dù trong Kinh Tạng hay trong A Tỳ Đàm đều nói đến hai cảnh giới đối lập nhau gọi là nội phần và ngoại phần, như chúng ta nói "lấy bụng ta suy bụng người". Cái nội phần và cái ngoại phần, cái trong và cái ngoài luôn luôn tương tác với nhau, liên hệ với nhau bằng cách này và cách khác. Thì vị đó nhìn nội sắc nhưng có thể thấy được ngoại sắc, đó là điểm thứ nhất. Và ở trong đó ngoài cái thấy của nimitta của quang tướng hiện tượng, nó còn có tánh cách là hữu hạn hay vô hạn, thành ra nó chia hai điều.
Hữu hạn là như vậy:
- Chúng ta thấy mùa thu chỉ là những chiếc lá vàng, nhìn mùa thu nằm ở chiếc lá vàng, thì đó là hữu hạn. Mùa thu nằm ở trong chiếc lá vàng
Còn vô hạn:
- Nhưng thấy lá vàng thấy cả một mùa thu thì đó là vô hạn.
Điều này hơi khó hiểu một chút:
- Nhìn cái tổng thể để hiểu cái cá thể, chúng ta gọi là hữu hạn.
- Nhìn cái cá thể để nghĩ đến cái tổng thể đó là vô hạn.
Nó hơi khó hiểu một chút, nhưng đôi khi một thế giới lớn nào đó được chúng ta nhận thức nằm vỏn vẹn ở trong chiếc lá vàng như một người có thể nhìn thấy mùa thu ở những chiếc lá vàng, nhưng cũng có những người nhìn ngược lại là thấy chiếc lá vàng là thấy mùa thu về.
Về việc này chúng ta chỉ cần hiểu về phương diện tâm lý một chút thì chúng ta sẽ thấy ở đây tại sao điều một và điều hai giống nhau, trong danh từ chuyên môn ở đây là thấy các ngoại sắc có hạn lượng đẹp và xấu (đúng ra chữ đẹp xấu ở đây chúng ta nói là thô hay tế), nhưng mà rồi, đây là một điểm rất quan trọng là khi thấy những sắc có hạn lượng hay không hạn lượng đẹp xấu, thì cái đó thuộc về quang tướng thuộc về nimitta, nhưng trong sớ giải nói rằng khi vị đó rời khỏi tâm định thì vị này có khả năng nhận thức rằng sau khi nhiếp thắng chúng ta biết ta thấy tức là một vị thành tựu được tâm định đó, nhưng nếu thành tựu tâm định đó mà vị đó không có được sự hồi quán, không nhìn lại được, không có thấy được đó là hiện tượng, thì gọi là tẩu hỏa nhập ma hay là đi lạc đường. Đi lạc đường là vị đó không thấy. Khi mình vào trạng thái đó thì mình thấy nó như vậy nhưng mình rời khỏi trạng thái đó thì mình có thể nhìn lại một cách toàn bộ.
Chúng tôi lấy ví dụ: Một người nghe một bản nhạc ở trong lúc rất cao hứng cảm thấy tâm tư mình hoà theo bản nhạc đó. Nhưng sau khi bản nhạc hết rồi, rời khỏi bản nhạc đó rồi, vị đó nhìn lại toàn bộ cảm giác của mình thì mới đánh giá bản nhạc đó hay, tâm của mình đã hoà với bản nhạc đó thế nào, vị đó nhìn lại như vậy, vị đó mới nắm rõ hoàn toàn được giá trị của bản nhạc, lời nhạc, điệu nhạc và cái cảm thụ về âm nhạc của mình, như vậy là vị đó không phải chỉ cảm nhận bản nhạc lúc mà vị đó đang nghe nhạc mà sau khi vị đó đã rời cái nơi nghe nhạc đã không còn nghe nhạc nữa và nhìn lại cảm giác của mình, nhìn lại bản nhạc nhìn lại hồi thức thì cái đó chúng ta gọi là khả năng hồi quán thấy và biết, trong Phật Pháp gọi đó là tuệ, thuộc về tri kiến.
Không có tri kiến như vậy là chúng ta có vấn đề, tức là đi vào trong thế giới đó mình chỉ có mê mệt, mình chỉ có đắm đuối, chỉ có miên man trong đó, chúng ta hoàn toàn không có khả năng hồi quán thì cái đó không gọi là mình hưởng thụ nữa mà là mình bị ma nhập, mình bị ghiền, cái này nó là một điểm rất tế nhị.
Nhiều người hình dung Thiền Chỉ là một thế giới hoàn toàn mình không biết. Hồi chúng tôi còn nhỏ có một vị Hoà Thượng nổi tiếng ở bên Nam Tông, vị đó luôn luôn chủ trương khi một người nhập thiền họ có thể không biết được, và HT đó cũng cổ võ là người hành thiền có thể ngồi thiền ba bốn ngày hoàn toàn không biết, ngồi càng lâu càng tốt, gọi là nhập định. Nhưng thật ra trong thế giới của Thiền Chỉ thì mặc dầu ngay lúc nhập định vị đó không có cái biết như chánh niệm của Thiền Quán, nhưng khi xuất định rời khỏi đề mục đó thì vị hành giả có khả năng hồi quán tức là nhìn lại toàn bộ chứ không phải là ở trong đó người hành giống như một người ghiền cần sa ma túy hay một người chỉ biết đem tâm tư mình chú ý vào trong đó, mê mệt ở trong đó, rồi hoàn toàn không biết trời trăng gì nữa, đó không phải là samadha của Đức Phật Ngài dạy, vị hành giả phải có khả năng hồi quán, đó là cái thứ nhất và thứ hai này giống nhau. Cái thứ nhất và thứ hai chỉ khác nhau ở hữu hạn và vô lượng, lấy cái hữu hạn để biết cái vô lượng hay lấy vô lượng biết hữu hạn, cái đó là chúng ta nói lấy một cái cá thể để biết tổng thể, lấy tổng thể để biết cá thể, cái nhìn như vậy khác biệt hai điều.
Trong điều thứ ba và thứ tư khác với hai điều trên ở chỗ là vị này không có dùng nội sắc.
(ở trong bài học câu này dịch là vị này quán tưởng vô sắc nội tâm, chúng tôi hồi nãy có nói rằng câu đó nên dịch là không quán sắc ở nội tâm mà chỉ thấy sắc ở ngoại sắc thôi, nếu chúng ta dịch là quán vô sắc ở nội tâm cái đó rất là dễ làm cho chúng ta hiểu lầm, ở đây chúng ta học phải cố gắng chú ý. khi có nhiều bản dịch thì chúng ta không thể nào chỉ dịch bằng ngôn ngữ được mà chúng ta phải dịch dựa lên trên ý nghĩa của sớ giải đó, chuyện đọc sớ giải rất là quan trọng ở đây).
Thì vị này "không có quán sắc ở nội tâm, nhưng vị này khi nhìn ngoại sắc" thì cũng có nimitta có quang tướng, và cũng có cái sự hồi quán và có khả năng để nhiếp quán tức là không để tâm mình đi quá xa.
Bốn cái còn lại là thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thì ở đây chúng ta phải nói một ở trong những giác quan có ảnh hưởng lớn đến tâm thức đó là cái nhìn của con mắt, và con mắt chúng ta nhìn thấy do ánh sáng, và bản chất của ánh sáng về quang học luôn luôn là màu sắc, cái gì chúng ta phân biệt được luôn luôn có màu sắc, bốn màu sắc tiên khởi, màu nguyên thủy là xanh, vàng, đỏ, trắng.
Những màu khác ví dụ như màu hoa cà hay màu hồng phấn hay màu xanh lá mạ những màu khác chúng ta gọi là secondary là loại màu ở cấp hai. Màu sắc biến hóa vô cùng, màu này pha với màu kia biến hóa vô cùng, nhưng những màu biến hóa càng xa thì khả năng để biến mãn càng hạn chế, chính màu gốc màu nguyên thủy mới là màu có khả năng biến mãn, có khả năng chuyển hóa được. Những màu để tu tập thiền phải là màu nguyên thủy
Ngày hôm nay con người dần dà phát hiện màu sắc ảnh hưởng thế giới của chúng ta nhiều, trong ghi chú của các nhà tâm lý học Tây Phương có những màu làm cho chúng ta hăng hái, có những màu làm cho chúng ta mát dịu, có những màu làm chúng ta lười, có những màu làm lãng mạn, từ nghiên cứu này dẫn đến một phương pháp trị liệu, gọi là sắc thể liệu pháp tức là những cách trị liệu bằng màu. Ví dụ, có những người tâm thần họ bị kích động trong điều kiện nào đó thì người ta cho vào trong căn phòng mang một loại màu đối trị và do màu đó khiến cho người bị kích động tâm thần này dịu xuống. Nhưng cũng có những trường hợp một người đang rất bình thường nhưng khi thấy màu nào đó họ bị kích động, do vậy bây giờ người ta nghiên cứu rất nhiều về màu sắc.
Ngoài ra màu sắc còn ảnh hưởng đến vị giác của con người, người ta còn dùng màu sắc làm cho thực phẩm trở nên hấp dẫn, nhưng không phải màu nào cũng dùng cho thực phẩm được.
Màu sắc có thể liên quan đến tâm định. Người Tây Tạng sống ở miền núi, họ nghiên cứu về sự tu tập tâm định, thì người Tây Tạng tạo ra những tượng Tara có nhiều màu sắc khác nhau và màu sắc này thật sự tương ứng với tâm thái của hành giả nào đó, không phải tất cả hành giả đều có thể tập trú vào đề mục Tara màu đỏ, hay Tara màu xanh, hay Tara màu vàng, người ta phát hiện người hành giả khi mới tập trung thì không thấy gì nhưng tu tập dài lâu thì màu sắc phải thích hợp với vị hành giả đó để có thể tiếp tục tâm định, đó là một trong những phát hiện lớn đến sự tu tập thiền định của người Tây Tạng.
Riêng đối với một hành giả tu tập Thiền Chỉ chúng ta được biết màu sắc phải thích hợp mới tạo ra tâm định. Như ở trong cuộc đời này có nhiều nghề, nhiều môn học, nhưng có những nghề và môn học chúng ta đi vào trong thế giới đó thích hợp sẽ khiến chúng ta đi xa, đi sâu, nhưng nếu không thích hợp thì không làm chúng ta đi xa, đi sâu được.
Trong sách xưa, Cổ Học Tinh Hoa kể một câu chuyện, có một đứa nhỏ tên A Lưu được cha mẹ gửi đến ở đợ nhà một viên ngoại. Mọi người trong nhà ai cũng cười vì nghĩ rằng một đứa bé ngờ nghệch chậm chạp, và đầu óc không bình thường.
Lúc biểu nó đi tưới cây thì nó nhổ cây lên để coi rễ dài bao nhiêu, người ta hỏi sao tưới cây mà lại nhổ cây lên cây chết thì sao, thì nó nói "phải biết rễ ăn sâu dưới đất bao nhiêu mình mới tưới nhiều hay ít nước được, chứ nếu không biết rễ ăn sâu xuống bao nhiêu thì sao tưới được".
Biểu nó đi lau đồ gỗ thì nó cạo sơn cho tróc ra, ở nhà nổi giận hỏi tại sao làm chuyện ngu ngốc như vậy, đồ gỗ cạo ra nó bị hư, thì nó nói " muốn biết màu gỗ thật sự là gì, vì màu bên ngoài chỉ là lớp bụi, không phải là màu đồ gỗ nguyên thủy".
Nhà cần cái nạng cắm để phơi đồ, kêu nó đi chặt cây nào có hai cái chảng để cắm xuống đất như hai cái chân cho vững, rồi có cái cây ở giữa gác ngang qua. Nó đi cả ngày mà không mang được cây nào, hỏi tại sao, thì nó nói: "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả, không có cành nào mọc chúc xuống đất ".
Mọi người trong nhà ai cũng nói thằng nhỏ đầu nó bị hư rồi, nếu nó có học tới đâu làm tới đâu thì cũng không ra gì, nhưng riêng ông viên ngoại kêu A Lưu lại gần và nói: "Ta vẽ tranh thấy con đứng chăm chú nhìn vậy chứ con có thích vẽ không?
A Lưu gật đầu nói thích vẽ, ông đưa giấy đưa sơn đưa cọ, A Lưu lấy giấy sơn cọ và chỉ trong chốc thoáng thì nó vẽ tấm tranh rất xuất sắc. Bấy giờ ông mới nói: :Thằng nhỏ này nó làm những việc rất kỳ khôi nhưng điều đó nó chỉ tỏ ra nó có sự kén chọn, ví dụ như nó nghĩ về cái chiêu kích, nó nghĩ về màu sắc và nó có những đòi hỏi thì đó là thiên tư của một bậc danh họa, quả thật về sau này A Lưu là một bậc danh họa.
Thì ở đây, chúng tôi muốn nói một điều là trong thế giới của nội tại, và đặc biệt là thế giới của nội tâm thật ra rất khó biết, rất khó hiểu về cách sống của mỗi người, về tư duy của mỗi người.
Cuổn sách "Nẻo về của ý" của HT Nhất Hạnh là một tập hồi ức rất thú vị, trong đó kể lại một quảng đời ở chung với anh em người giỏi việc này người giỏi việc kia, HT Nhất Hạnh không giỏi việc chỉ phụ giúp tay chân chút thôi, HT sống gần như có thế giới riêng của mình. HT Nhất Hạnh là một người rất có tài, là một ở trong những người hiếm hoi, nhưng một người có tài có thể ở một giai đoạn nào đó không được xã hội đón nhận như một người bình thường, bởi người ta không thương mình nhiều. Người ta nói những người có tài thì rất cô đơn. Khổng Tử ít có người nào mà biết được Khổng Tử khi chết cũng là một người rất cô đơn, sau này khoảng 200 năm sau khi Khổng Tử mất bắt đầu người ta mới thấy giá trị của một vị đáng tôn kinh. Khổng Tử cả đời đi làm chính trị nhưng bị thất bại cho đến khi gần 60 tuổi mới mở lớp dạy học trò lúc bấy giờ mới để lưu lại cho hậu thế những lời dạy vàng ngọc. Một họa sĩ có tài như Magoo, hay nhà soạn nhạc lỗi lạc Mozart, cả hai chết đi trong sự nghèo khó, mãi đời sau này người ta mới thấy được giá trị của hai nhà thiên tài đó.
Điều chúng tôi muốn nói, trong thế giới chúng ta sống ở tại đây không phải cái gì cũng có một giá trị hiển lộ rõ ràng trước mắt chúng ta, mà vấn đề đó là đường dài. Chúng tôi có nghe vài trường hợp có người bị quảng cáo mê hoặc uống loại thuốc nào đó tự nhiên đường xuống trị bịnh tiểu đường, uống thuốc nào đó vạn năng được chuyện này tốt chuyện kia tốt mặc dầu không có cái gì để gọi là bảo đảm về lâu về dài, nhưng cách suy nghĩ của chúng ta ngắn hạn đoản kỳ uống vô thấy có hiệu quả thì uống liền, trong lúc đó có những pháp trị bịnh đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài, thí dụ như bị bịnh mình đi bác sĩ Tây họ chích liền một liều thuốc rất mạnh, nhưng bác sĩ Mỹ thì họ quan niệm không để cho cơ thể nóng sốt quá, khi nóng sốt cao thì uống thuốc hạ sốt Tylenol còn ngoài ra thì để cơ thể khởi lên kháng thể để có thể vuợt qua chứng bịnh, nó mất thời gian thôi nhưng về lâu về dài lại tốt cho sức khỏe hơn.
Thì thế giới về tâm sinh lý của con người rất phức tạp, chẳng những phức tạp như vậy mà về sự tu tập tâm định lại càng tế nhị hơn. Tế nhị ở đây điều chúng tôi muốn nói cái gì thích hợp, cái gì có thể đi được đường dài, cái gì có khả năng chuyển hóa, cái gì có khả năng biến mãn, những điều đó không đơn giản, phải đắn đo phải hiểu.
Đức Phật Ngài dạy tám thắng xứ này không nặng về lý thuyết, tất cả đều nói về nimitta nói về quang tướng, nói về kiến giải, và nói về các đề mục Thiền, chúng ta gọi là thuần về chuyên môn. Ở đây không có màu sắc của tôn giáo nhưng những điều này rất quan trọng. Những khám phá về sự tương tác giữa nội tại và ngoại tại, giữa hiện tượng và bản chất, giữa những màu sắc nguyên thủy ảnh hưởng tâm lý thế nào, cho chúng ta những cái khung rất thú vị khi chúng ta hiểu về hiện tượng tâm lý. Mặc dù trên phương diện tâm định chúng ta có giới hạn, không có thành tựu mau chóng, nhưng những bài học này rất lợi lạc để chúng ta biết ./.