Kinh Paritta là kinh gì?
Do nhân duyên được nghe Chư Tăng lớp Phật Pháp Buddhadhamma thuyết giảng có nhắc đến kinh Paritta. Và vì không biết kinh Paritta là kinh gì và có uy lực ra sao nên chúng tôi đã tìm hiểu và dịch lại. Vì lý do đang tìm hiểu nên có điều gì sai hoặc thiếu xót xin chư vị chỉ dạy thêm.
Minh Hạnh
Từ vựng Paritta (Pali) được dịch là "sự che chở" hay "sự bảo vệ". Những bài kinh Paritta là những bài kinh đề cập đến việc tu tập thực hành Phật Pháp, và được tụng trong việc xua đuổi tà ma hoặc những lúc gặp nguy hiểm. Được miêu tả như những bài kinh có uy lực tâm linh. Việc tụng niệm hay nghe kinh điển Paritta đã có từ rất sớm trong lịch sử Phật giáo.
Một số những bài kinh Paritta được tin rằng sẽ đem lại kết quả mong muốn nhờ phát triển sự hộ trì hiệu quả của Chư Thiên như những bài nguyện cầu sự thịnh vượng, an lành và hạnh phúc của các Phật tử.
Trong kinh điển Pali, những bài kinh này được Đức Phật thuyết giảng như là một sự tu tập để tránh khỏi những phiền não. Niềm tin vào sức mạnh có hiệu quả để chữa lành, hoặc sự bảo vệ, của năng lực thần thông, hoặc sự tương ứng của một cái gì đó.
Nhiều người tin rằng tụng kinh Paritta bởi Chư Tăng sẽ mang lại nhiều phước báu. Những lời kinh tán thán cũng được tụng trong những dịp tốt đẹp, chẳng hạn như lễ khánh thành ngôi đền mới hoặc nhà mới hoặc để ban phước cho những người nghe. Ngược lại, có những bài kinh Paritta được tụng trong những lễ tang hay vào dịp ngày giỗ kỵ của người thân yêu đã quá vãng. Cũng có thể được tụng để xoa dịu sự phiền não.
Trong các loại Kinh Paritta Sutta này được tụng niệm một mình hoặc tập thể nhiều người. Một số hoặc tất cả những Kinh Paritta được tụng niệm như những câu trú nguyện thông thường của Phật tử, nhằm chống lại những hiểm nguy và tai hoạ hoặc phòng tránh những chuyện không may mắn đang diễn ra và vô hiệu hoá các rủi ro từng xảy ra là mục đích chính của việc tụng niệm.
Cần phải lưu ý là mỗi bài kệ Paritta Sutta có chức năng đặc trưng khác nhau, mặc dù bất cứ bài kệ Paritta nào cũng có thể được tụng niệm như một biện pháp hộ trợ thông thường. Và người tụng phải có chánh niệm cũng như lòng tin vào sự hộ trì của bài kinh.
Có những câu kinh Paritta tụng lên để trực tiếp cầu xin Đức Phật bảo hộ như trong kinh Nguyệt Thiên Tử-Candima Sutta và kinh Nhật Thiên Tử-Suriya Sutta. Trong hai đoạn kệ này Chư Thiên Canda và Surya đã tụng đọc để mong sự bảo hộ của Đức Phật trước sự đe doạ của vua A Tu La Ràhu.
- Đảnh lễ đấng Giác Ngộ,
Bậc Anh Hùng muôn thuở,
Ngài là bậc Giải Thoát,
Thoát ly thật viên mãn,
Còn con bị trói buộc,
Hãy cho con quy ngưỡng.
Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:
Canda đã quy y,
Như Lai, bậc La-hán,
Ràhu, hãy thả nó,
Vì chư Phật thương đời.
Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:
Vì sao, như hốt hoảng,
Ràhu thả Canda,
Ông đến, lòng run sợ,
Ông đứng, tâm kinh hoàng?
Đầu con bể thành bảy,
Đời con không hạnh phúc,
Với lời kệ đức Phật,
Nếu không thả Canda.
Có những bài kinh Paritta khác dựa trên đức hạnh cá nhân của người nói lời chân ngôn được ghi lại trong kinh điển thay vì tán thán Đức Phật như trong kinh Angulimala Sutta, nói về Tỳ Kheo Angulimala, một người sát hại 999 người được Đức Phật chuyển hoá chứng đắt đạo quả, khi một phụ nữ mang thai gặp khó khăn trong khi sinh nở, Ngài Angulimala được chuyển đến để hỗ trợ. Hỏi Đức Phật làm thế nào để có thể giúp đỡ, Đức Phật bảo Angulimala ban phước lành cho người phụ nữ bằng cách đọc một câu chân ngôn về đức hạnh của mình:
"Này Bà chị, vì rằng tôi từ khi sanh ra chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn!"
Câu Kinh Paritta này được coi như là lời ban phước lành cho các phụ nữ mang thai sắp đến ngày sanh nở trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy.
Đức Phật và các vị A La Hán có thể tập trú vào các bài kinh Paritta mà không cần sự trợ giúp của người khác. Tuy nhiên, khi Đức Phật hoặc các vị Alahán bị bịnh, các Ngài dễ dàng chánh niệm lắng nghe những gì người khác niệm, và do đó tập trung tâm trí vào giáo pháp mà các kinh điển chứa đựng, hơn là tự nghĩ về Pháp. Có lần Đức Phật bịnh vị thị giả đã tụng kinh Thất Giác Chi, Ngài chánh niệm nghe và sau đó hết bịnh.
Tại các nước theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy các bài kinh Paritta được phổ biến và được biết đến rộng rãi, mặc dù không nhất thiết phải hiểu.
Những Phật tử tại Miến Điện thì tin rằng có 11 kinh có uy lực Paritta. Đó là:
1. Kinh Hạnh Phúc (Mangala sutta) Khp 5, Sn 2.4
2. Kinh Châu Báu ( Ratana sutta) Khp 6, Sn 2.1
3. Kinh Từ Bi (Metta sutta) Khp 9, Sn 1.8
4. Kinh Các Uẩn ( Khandha sutta) .SN 22.48
5. Kinh Mora sutta. Ja 159
6. Luân Hồi Kinh (Vatta sutta) dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng ( Cariyapitaka) trong Tiểu A Hàm.
7. Kinh Đầu Lá Cờ ( Dhajagga sutta) -.Dhajagga-paritta ("Đầu Lá Cờ") SN 11.3
8. Atanatiya Sutta ("Kinh A-sá-nang-chi") DN 32
9. Ương Quật Ma La Kinh ( Angulimala sutta, Vô Não Kinh) AN 10.60
10. Kinh Thất Giác Chi ( Bojjhanga sutta) SN 46.14, SN 46.15, SN 46.16
11. Kinh buổi sáng tốt lành (Pubbanha sutta - Buổi Sáng Tốt Lành) AN 3.150
Trong khi đó theo wikipedia.org thì cho là có 29 bài kinh có uy lực Paritta được ghi dưới đây:
1. Sarana-gama ("Tam Quy") Khp 1
2. Dasa-sikkhapada ("Mười Giới") Khp 2
3. Samanera-pañha ("Nam Tử Hỏi Đạo") Khp 4
4. Dvattimsakara ("32 Thể Trược") Khp 3
5. Paccavekkhana ("Những điều quán tưởng của người Xuất Gia") MN 2 (excerpt), passim
6. Dasa-dhamma Sutta ("Mười Pháp") AN 10.48
7. Mahamangala Sutta ("Kinh Điềm Lành") Khp 5, Sn 2.4
8. Ratana Sutta ("Kinh Châu Báu") Khp 6, Sn 2.1
9. Karaniya Metta Sutta ("Kinh Từ Bi") Khp 9, Sn 1.8
10. Khandha-paritta ("Kinh Các Uẩn") SN 22.48
11. Metta-anisamsa ("Kinh Từ Bi") AN 11.16
12. Mitta-anisamsa ("Tiền Thân Mùga-Pakka") Ja 538
13. Mora-paritta ("Tiền thân Mora") Ja 159
14. Canda-paritta ("Kinh Nguyệt Thiên Tử") SN 2.9
15. Suriya-paritta ("Kinh Nhật Thiên Tử") SN 2.10
16. Dhajagga-paritta ("Đầu Lá Cờ") SN 11.3
17. Mahakassapa Thera Bojjhanga ("Trường Lão Mahà Kassapa bịnh và Đức Thế Tôn thuyết Thất Giác Chi , Trưởng Lão Kassapa sau khi nghe xong liền khỏi bịnh") SN 46.14 (Kinh người bệnh I)
18. Mahamoggallana Thera Bojjhanga ("Tôn Giả Maha Moggalana's Mục Kiền Liên bị bịnh và Đức Thế Tôn giảng Thất Giác Chi, Tôn Giả nghe xong đã khỏi bịnh") SN 46.15 (Gilana Sutta II)
19. Mahacunda Thera Bojjhanga ("Đức Phật bị bịnh Tôn Giả Maha Cunda thuyết giảng Thất Giác Chi và Đức Phật sau khi nghe xong đã khỏi bịnh") SN 46.16 (Gilana Sutta III)
20. Girimananda Sutta ("Tôn Giả Girimananda bị bịnh Đức Phật sai Tôn Giả Ananda đến thuyết giảng 10 quán tưởng Ngài Girimananda nghe xong liền khỏi bịnh") AN 10.60
21. Isigili Sutta ("Kinh Thôn Tiên") MN 116
22. Dhammacakkappavattana Sutta ("Kinh Như Lai Thuyết") SN 56.11
23. Maha-samaya Sutta ("Kinh Dai Hoi") DN 20
24. Alavaka Sutta ("Kinh Da Xoa Alavaka ") SN 46.11
25. Kasi Bharadvaja Sutta ("Farmer Bharadvaja Discourse") Sn 1.4
26. Parabhava Sutta ("Kinh Bại Vong") Sn 1.6
27. Vasala Sutta ("Kinh Kẻ Bần Tiện") Sn 1.7
28. Sacca-vibhanga Sutta ("Kinh Phân biệt về Sự thật") MN 141
29. Atanatiya Sutta ("Kinh A-sá-nang-chi") DN 32
2. Kinh Châu Báu ( Ratana sutta) Khp 6, Sn 2.1
3. Kinh Từ Bi (Metta sutta) Khp 9, Sn 1.8
4. Kinh Các Uẩn ( Khandha sutta) .SN 22.48
5. Kinh Mora sutta. Ja 159
6. Luân Hồi Kinh (Vatta sutta) dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng ( Cariyapitaka) trong Tiểu A Hàm.
7. Kinh Đầu Lá Cờ ( Dhajagga sutta) -.Dhajagga-paritta ("Đầu Lá Cờ") SN 11.3
8. Atanatiya Sutta ("Kinh A-sá-nang-chi") DN 32
9. Ương Quật Ma La Kinh ( Angulimala sutta, Vô Não Kinh) AN 10.60
10. Kinh Thất Giác Chi ( Bojjhanga sutta) SN 46.14, SN 46.15, SN 46.16
11. Kinh buổi sáng tốt lành (Pubbanha sutta - Buổi Sáng Tốt Lành) AN 3.150
Trong khi đó theo wikipedia.org thì cho là có 29 bài kinh có uy lực Paritta được ghi dưới đây:
1. Sarana-gama ("Tam Quy") Khp 1
2. Dasa-sikkhapada ("Mười Giới") Khp 2
3. Samanera-pañha ("Nam Tử Hỏi Đạo") Khp 4
4. Dvattimsakara ("32 Thể Trược") Khp 3
5. Paccavekkhana ("Những điều quán tưởng của người Xuất Gia") MN 2 (excerpt), passim
6. Dasa-dhamma Sutta ("Mười Pháp") AN 10.48
7. Mahamangala Sutta ("Kinh Điềm Lành") Khp 5, Sn 2.4
8. Ratana Sutta ("Kinh Châu Báu") Khp 6, Sn 2.1
9. Karaniya Metta Sutta ("Kinh Từ Bi") Khp 9, Sn 1.8
10. Khandha-paritta ("Kinh Các Uẩn") SN 22.48
11. Metta-anisamsa ("Kinh Từ Bi") AN 11.16
12. Mitta-anisamsa ("Tiền Thân Mùga-Pakka") Ja 538
13. Mora-paritta ("Tiền thân Mora") Ja 159
14. Canda-paritta ("Kinh Nguyệt Thiên Tử") SN 2.9
15. Suriya-paritta ("Kinh Nhật Thiên Tử") SN 2.10
16. Dhajagga-paritta ("Đầu Lá Cờ") SN 11.3
17. Mahakassapa Thera Bojjhanga ("Trường Lão Mahà Kassapa bịnh và Đức Thế Tôn thuyết Thất Giác Chi , Trưởng Lão Kassapa sau khi nghe xong liền khỏi bịnh") SN 46.14 (Kinh người bệnh I)
18. Mahamoggallana Thera Bojjhanga ("Tôn Giả Maha Moggalana's Mục Kiền Liên bị bịnh và Đức Thế Tôn giảng Thất Giác Chi, Tôn Giả nghe xong đã khỏi bịnh") SN 46.15 (Gilana Sutta II)
19. Mahacunda Thera Bojjhanga ("Đức Phật bị bịnh Tôn Giả Maha Cunda thuyết giảng Thất Giác Chi và Đức Phật sau khi nghe xong đã khỏi bịnh") SN 46.16 (Gilana Sutta III)
20. Girimananda Sutta ("Tôn Giả Girimananda bị bịnh Đức Phật sai Tôn Giả Ananda đến thuyết giảng 10 quán tưởng Ngài Girimananda nghe xong liền khỏi bịnh") AN 10.60
21. Isigili Sutta ("Kinh Thôn Tiên") MN 116
22. Dhammacakkappavattana Sutta ("Kinh Như Lai Thuyết") SN 56.11
23. Maha-samaya Sutta ("Kinh Dai Hoi") DN 20
24. Alavaka Sutta ("Kinh Da Xoa Alavaka ") SN 46.11
25. Kasi Bharadvaja Sutta ("Farmer Bharadvaja Discourse") Sn 1.4
26. Parabhava Sutta ("Kinh Bại Vong") Sn 1.6
27. Vasala Sutta ("Kinh Kẻ Bần Tiện") Sn 1.7
28. Sacca-vibhanga Sutta ("Kinh Phân biệt về Sự thật") MN 141
29. Atanatiya Sutta ("Kinh A-sá-nang-chi") DN 32
Ghi Chú: Xem các bài kinh theo số thứ tự tại trang Tam Tạng Thánh Điển theo địa chỉ sau
http://tamtangkinhdien.blogspot.com/2017/06/kinh-paritta-la-kinh-gi.html