Monday, February 23, 2015

Niết-bàn

Bài học: Niết bàn

Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhama ngày 13-5-2014, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta đọc câu Phật ngôn Đức Phật dạy có hai Niết-bàn giới tức hai cảnh giới Niết-bàn: Một là Vô Dư, hai là Hữu Dư, đây là danh từ rất chuyên môn. 

Chúng ta nói đơn giản hơn:

- Hữu Dư Niết-bàn đề cập đến trạng thái một vị đã viên thành quả giải thoát đã đoạn tận phiền não gọi là phiền não Niết-bàn. Vị này không còn phiền não tham sân si. Ở đây cũng nói rõ vô minh và ái hoàn toàn không còn nữa nhưng vị này vẫn còn thân ngũ uẩn đó là hình ảnh của Đức Phật và các đệ tử của Ngài sau khi đã viên thành quả vị giải thoát. Chúng ta gọi là hữu dư Niết-bàn.

- Vô Dư Niết-bàn còn gọi là ngũ uẩn Niết-bàn, đó là mầm tương lai không có, nhưng quả quá khứ cũng đọan. Thí dụ như Đức Thế Tôn Ngài viên tịch tại Kusinārā hay Ngài Xá Lợi Phất viên tịch tại Nàlandà. Điều đó chúng ta gọi là vô dư Niết-bàn hay ngũ uẩn Niết-bàn.

Cả hai trạng thái Hữu Dư và Vô Dư đều không dễ dàng để hiểu đối với tất cả chúng ta ngay cả những nhà tư tưởng Phật học lớn. Và điều thú vị là những vị tổ của Phật giáo Đại Thừa như Ngài Long Thọ, Ngài Thế Thân, Ngài Vô Trước, đặc biệt là Ngài Long Thọ và Ngài Vô Trước đều có những linh họa về Niết-bàn rất gần với Phật giáo Nguyên Thủy. Nhưng về sau các vị thừa tiếp Phật giáo Đại Thừa đặc biệt ở Trung Hoa và Việt Nam nhìn sự việc khác đi, điều này  chẳng những ảnh hưởng lớn cái nhìn của Phật tử đối với cứu cánh giải thoát mà còn có một tác động vô cùng quan trọng trong sự phân hóa cái nhìn khác biệt của các bộ phái khi nhìn về cứu cánh của đời sống tu tập.  

Như tất cả chúng ta đều biết để hiểu Niết-bàn chúng ta phải hiểu Sanh Tử. Sanh Tử ở đây là sự hiện hữu của chúng ta, sự hiện hữu Đức Phật dạy chúng ta có trong giờ phút này đó là sắc thân, cảm thọ, sự trải nghiệm, sự tạo tác và nhận thức của các giác quan. Trong danh từ Phật học gọi ngũ uẩn, sắc uẩn là thành phần vật chất đó là thân của chúng ta. Thân này do tứ đại hợp thành bằng xương bằng thịt phải ăn phải uống và phải chịu bệnh tật. Ngay cả một tấm thân già nua đau bệnh nhưng chúng ta vẫn thương vẫn qúi. Có những người rất già rất bịnh vẫn chăm chút hằng giờ trước gương để làm đẹp. Có những người rất già rất bệnh nhưng bỏ thân này ra đi thì không đành không cam lòng. Cho chúng ta thấy rằng đây là thân của chúng ta nó khổ, nó là ổ bệnh tật nhưng chúng ta bỏ nó không dễ tại vì nó là của mình. 

Tương tựa như một người mua một dàn máy stereo cách đây 20 năm và thời đó dàn máy họ mua rất tốt, tốn hàng ngàn Mỹ kim để mua bây giờ dàn máy đó đã cổ lỗ xĩ đã lỗi thời không đáng giá bao nhiêu, nó kềng kàng nhưng đem quăng đi một món mình đã bỏ ra bao nhiên ngàn Mỹ kim để mua cách đây mười mấy năm thì không đành lòng.

 Chúng ta cũng vậy nếu sắc thân này cho dù giả hợp bệnh hoạn già nua chúng ta cũng không đành bỏ , cảm thọ hay trạng thái vui buồn không vui không buồn, cảm thọ đó là những cái gì dày xéo cuộc sống chúng ta rất nhiều. Cụ Nguyễn Công Trứ viết rằng "Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo " Nhiều người trong cuộc sống trước những vui buồn thăng trầm cảm thấy cuộc đời nản quá chỉ mong làm sao đời sau làm cây thông reo ở giữa núi rừng bạc ngàn. Bởi vì người ta nghĩ như vậy là hạnh phúc hơn nhiều.

   Có bao nhiêu người trong chúng ta lãnh đủ thứ những chuyện vinh nhục thăng trầm, đủ thứ sự bất an nhìn một cặp thiên nga hay một con vịt lội trên bờ hồ hay con sáo tắm trên thác nước nghĩ rằng ước gì mình là chim, ước gì mình là con thiên nga bơi lội thanh thản nhởn nhơ vậy mà hạnh phúc.
   
     Chúng ta thường cảm thấy:
      - Cảm thọ làm cho mình khổ, cảm thọ nhiều khi nó thường là một vết thương không băng bó đụng đến là đau nhức. Nhưng chúng ta vẫn yêu thọ uẩn, chúng ta vẫn dính mắc vào thọ uẩn.
 
   - Tưởng uẩn, là sự trải nghiệm, sự hấp thụ, sự giáo dục chúng ta có được trong cuộc đời. Nói một cách cải lương hơn đó là dĩ vãng là quá khứ. Và khi nói về dĩ vãng quá khứ thì theo năm tháng chồng chất rất nhiều. Có nhiều người muốn sống với quá khứ và thường nhai đi nhai lại quá khứ một thời oanh liệt một kỷ niệm êm đềm. Nhưng cũng có nhiều người muốn quên đi quá khứ. Thậm chí người ta uống rượu để tiêu sầu bởi vì người ta không muốn nhớ không muốn nhắc.
   
   - Hành uẩn, là một cơ phận năng động tạo tác chủ trương thiện ác. Có nhiều thứ liên quan đến hành uẩn nhưng chính là một bộ phận của cuộc sống và cho chúng ta những quyết định nên làm thế này không nên làm thế kia. Không thể dễ dàng để chúng ta làm một quyết định và những quyết định đó tạo rất nhiều hệ lụy, nhất là tạo nghiệp. Nếu chúng ta đóng vai trò của một vị lãnh đạo thì chúng ta hiểu rằng để làm một sự lựa chọn không dễ, không dễ chút nào hết. 
   
   - Thức uẩn, là cái biết của các giác quan thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng. Nếu chúng ta sanh ra có phước thì những gì mình có như cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp tương đối tốt. Nếu  chúng ta kém phước, trong đời quá khứ đã tạo những ác nghiệp thì đúng rằng những sắc, thinh, khí, vị, súc không có khả ái. 
   
      Cho dù năm uẩn mình nói thế nào, mình nhìn thế nào thì nếu năm uẩn của ta chúng ta cũng cảm thấy mình dính mắc với nó mặc dầu nó cho chúng ta rất nhiều hệ lụy. Đức Phật dạy sự hiện hữu của chúng sanh tức là sự hiện hữu của năm uẩn và nếu một người học Phật hiểu được nguyên lý duyên khởi thì năm uẩn là quả và quả tạo ra bởi nghiệp và nghiệp tạo ra bởi phiền não, phiền não nghiệp quả là vòng luân chuyển để tạo sự hiện hữu của chúng ta. 
 
      Nói cách khác, cái gọi chúng sanh, cái gọi anh, chị, tôi, cái gọi ông này bà kia trên phương diện thuần túy Phật học đó là sự hiện hữu của năm uẩn. Và năm uẩn là sản phẩm của phiền não, năm uẩn là quả của nghiệp, và nghiệp được tác động bởi phiền não, vô minh và ái chính là đầu mối. Sản phẩm của vô minh và ái, của sự mê mờ và dính mắc, mê mờ và khao khát thì nó không thể là sản phẩm tuyệt hảo, một sản phẩm hoàn hảo như chúng ta nghĩ. 
 
Trong vòng luẩn quẩn của duyên khởi hành trình dẫn đến giác ngộ giải thoát Đức Phật đưa ra không phải nói rằng mình có thân mình khổ bây giờ leo lên lầu nhảy xuống tự tử thì hết khổ. Đức Phật không dạy như vậy. Tại cái khổ không đơn thuần là mình khổ về mắt thì mình khoét mắt, khổ về tai mình phải thọc tai cho điếc thì mình hết khổ, không phải như vậy. Vấn đề không phải giải quyết ở tại đó. Chúng tôi thấy có trường hợp cha mẹ đôi khi không có thì giờ cho con cái, con cái hư hỏng sang hàng xóm ăn cắp ăn trộm hoặc giả phá làng phá xóm, cha mẹ kêu về đánh, đánh đứa con thậm chí những trận đòn chí tử, hoặc giả là đòi giết đứa con, điều đó chỉ là một giải pháp có tánh cách bề ngoài, nhưng thật sự sâu xa một điều là cha mẹ không thể giết con được, và cha mẹ không thể làm cho con tốt hơn vì những trận đòn chí tử mà cha mẹ phải có sự giáo dục khác, sự giáo dục đó đòi hỏi có chiều dài, đòi hỏi giải quyết vấn đề tận gốc. Đứa con ham chơi lêu lổng vì nó không thích học, nó không siêng học, mình phải làm sao để cho con thích thú với việc học hành thì đó là một chuyện mà chỉ có những bậc cha mẹ có trình độ mới làm được. Thì ở đây chúng ta nói như vầy, năm uẩn tuy là khổ nhưng bảo rằng mình hủy hoại năm uẩn bằng cách đoạn mạng đi thì không có nghĩa giải quyết được vấn đề tại vì mầm mống vô minh và của khát ái vẫn còn đó. Nên Đức Phật đã dạy chúng ta con đường tu tập để đoạn trừ phiền não bằng định, bằng niệm và nhiều thiện pháp khác.

Bây giờ chúng ta nói sang một chuyện rất tế nhị. Rồi đến một ngày ở cuối hành trình hành giả nhờ vào sự tu tập đoạn tận được phiền não. Ở đây chúng ta chỉ nói đoạn tận được phiền não chứ chúng ta chưa nói đoạn tận được quả cũ, chúng ta gọi đó là hình ảnh của các bậc thánh các bậc đã đoạn tận phiền não như Thinh Văn Giác, Độc Giác và Toàn Giác.

Và câu hỏi chúng ta đặt ra: Đối với một vị sống ở trong cuộc đời này đoạn tận phiền não thì vị đó ra sao?
 Thật ra mình không mường tượng được. Ông bà chúng ta nói "lấy bụng ta suy ra bụng người", suy bụng ta ra bụng người. Cái suy bụng ta ra bụng người là mình dựa trên kinh nghiệm của mình, mình sống thì mình dựa trên nấc thang giá trị của xã hội trên danh lợi, dựa trên những đam mê những tha thiết bây giờ không có những thứ đó thì nó ra sao? "Phật dữ Phật tri, Thánh dữ Thánh tri" chuyện đó của bậc Thánh  chúng ta khó có thể hiểu, thật khó hiểu.

   Nó khó hiểu bởi vì ba lẽ: 
   
    -Thứ nhất, tất cả những gì chúng ta suy nghĩ đều dựa trên hữu vi pháp, dựa trên kinh nghiệm của quá khứ. Một bậc Thánh đã chứng đã tỏ ngộ Niết-bàn, vị đó nhìn sự việc một khác đi. Nó khó cho chúng ta hiểu về bậc Thánh là tại vì các vị hành động bằng tâm kiriya citta là tâm duy tác, tâm này là một trạng thái  thí dụ như Đức Phật thuyết pháp hay tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài hoằng pháp Ngài dạy dỗ các vị sadi, tất cả những việc đó đều không mang dấu ấn của nghiệp của vô minh của ái dục và không tạo nghiệp. Các Ngài hoằng pháp độ sinh thuần vì tâm bi mẫn nhưng không tạo phước không tạo ra quả tại vì đối với các Ngài thì việc tạo tác nhân quả nghiệp báo để sanh tử thì không còn nữa. 
    - Thứ hai. Nói cách khác, chỉ đơn thuần trên phương diện vị Alahán hành xử bằng tâm duy tác đã là chuyện khó hiểu cho chúng ta, thật sự khó hiểu, đừng nói chi chúng ta bàn nhiều. Lấy ví dụ trong cuộc đời chúng ta khi nói về chuyện gì đó mình phải nói cho lâm li bi đát cho nhiều kịch tính. 
    Ví dụ, trong Phật giáo Bắc Truyền có hình ảnh của Ngài Mục Kiền Liên đi vào trong địa ngục thấy mẹ là bà Thanh Đề đang chịu tội khổ, người ta diễn tả Ngài đã khóc, khóc thật nhiều, cầm bát cơm dâng lên cho mẹ mà rưng rưng nước mắt. 
    Thật ra hình ảnh của một người con thấy mẹ bị khổ trong địa ngục xót xa rung động sầu não, hình ảnh đó thật sự là hình ảnh rất con người rất gần gủi và rất cảm động đối với chúng ta.
     Nhưng bây giờ giả xử như hình ảnh của một vị Alahán trong trường hợp thấy mẹ bị tội khổ như vậy nhưng trong bản tâm của một vị Alahán không mảy may có sự xúc động thì chúng ta thấy có cái gì đó lạ không giống chúng ta. 
 
      Trong kinh Pháp Cú có đề cập đến hình ảnh của một vị Sadi và vị Sadi đắc đạo chứng quả Alahán đoạn tận phiền não, vị sadi này có người mẹ, người mẹ cũng là tỳ kheo ni xuất gia và đặc biệt người mẹ rất thương người con của mình nhưng vì hoàn cảnh nên mẹ cũng đi tu và con cũng đi tu, và con chứng quả Alahán. Vị tỳ kheo ni này vẫn thường đứng đầu đường để mong được thấy người con của mình là vị Sadi nhỏ đi khất thực. Có một lần vị Sadi Alahán nghĩ rằng mình phải tế độ mẹ mình, thành ra vị này đã gặp bà mẹ là một vị tỳ kheo ni và nghiêm nghị nói với vị tỳ kheo ni là sự dính mắc đối với con sự dính mắc bằng ái dục không xứng đáng đối với một người mặc áo càsa xuất gia như vậy.
 
       Có lẽ khi chúng ta nghe câu chuyện một bà mẹ nhìn thấy đứa con đi xuất gia con còn nhỏ đi khất thực mình không nuôi được thương quá đứng lề đường trông dõi mắt để nhìn từng bước chân đứa con mình, hình ảnh đó rất cảm động. Nhưng rồi đứa con lại có thái độ rất nghiêm nghị đối với mẹ thì hình ảnh đó không cảm động chút nào hết.
  
Bây giờ chúng ta lại nghe câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên gặp mẹ là bà Thanh Đề trong địa ngục, ngồi trên bàn chông Ngài đã khóc Ngài đã sầu não. Tại vì câu chuyện mang nhiều kịch tính điều đó cho chúng ta thấy rằng ở trong thế giới loài người chúng ta cảm nhận và cảm nhận hết không đủ, khó lắm. 
Thứ ba: Đừng nói chi phàm với Thánh, đừng nói chi Niết Bàn với Sanh Tử. Chúng ta chỉ nói đơn giản một chuyện người VN mới qua Mỹ. Ở đây chúng tôi thỉnh thoảng gặp một vài vị nhiều cái ở bên Mỹ mà ở VN hiểu không ra. Thí dụ như người bên Mỹ rất bận rộn gặp người nào ở VN qua thì dành thì giờ rất ân cần giúp đỡ việc này việc kia xong thì thôi, nhưng các vị ở VN thì nghĩ người giúp đỡ mình phải là tử tế lắm và cứ thường xuyên liên lạc gọi điện thoại nói tới nói lui làm cho những người này trốn hết, tại vì sao vậy? Tại vì cách suy nghĩ của người ở Mỹ và người ở VN rất là khác. Hay hoặc giả chúng tôi sống bên Mỹ lâu, giả sử Phật tử đến chùa mang cơm đến chư tăng trong lúc họ bận rộn và chúng tôi đến bàn ăn ngồi xuống và thấy thiếu ly nước, chỗ lấy nước kế bên ở đằng sau lưng thôi mình đứng dậy đi lấy ly nước thì mấy vị bên VN ngạc nhiên, các vị nói rằng có Phật tử sao không gọi họ lấy. Bây giờ mình sống ở Mỹ quen rồi mình thấy Phật tử đang bận lăng xăng việc này việc kia họ chưa mang nước ra thì mình đứng dậy đi lấy ly rót nước lạnh là chuyện bình thường. Ý chúng tôi muốn nói trong văn hóa đã là khó cảm thông khó có thể hiểu nhau thì đừng nói chi là giữa bậc Thánh và người phàm, giữa Niết-bàn và Sanh Tử. 
Một vị đoạn tận vô minh và ái, đoạn tận phiền não thì đời sống vị đó không dễ để chúng ta hình dung. Nhưng trong kinh nói rằng người đoạn tận vô minh và ái vị đó vẫn còn thân ngũ uẩn và tại vì còn ngũ uẩn do đó các hệ lụy của quá khứ còn lại. Thí dụ như là Ngài Rahula khi Ngài chứng Alahán  Ngài vẫn còn có dáng đẹp do phước trong quá khứ Ngài còn để lại. Hay là Ngài Cakkhupala đắc đạo quả Alahán nhưng Ngài vẫn chịu nghiệp trong quá khứ làm cho Ngài mù mắt v.v... Thì điều đó Đức Phật gọi là hữu dư Niết-bàn.
 
Chúng ta nói Vô Dư Niết-bàn. Nếu sự hiện hữu của 5 uẩn làm sản phẩm của vô minh, của ái, của phiền não, của nghiệp, chấm dứt vô minh và ái thì không còn sanh tử. Đa số Phật tử đều thấy sanh tử trầm luân là điều Đức Phật Ngài dạy chúng ta phải giải thoát nhưng khi không còn sanh tử trầm luân nữa thì chúng ta sẽ ra sao? Đây là điều có nhiều người luận bàn, cái gì sẽ xảy ra sau khi một vị A la Hán viên tịch Niết-bàn. Vị đó còn tồn tại hay không tồn tại, vị ấy còn hiện hữu hay không hiện hữu. Thậm chí trong lời tựa của cuốn sách "Đọc kinh Pháp Cú Nam Tông " của HT Trí Quang, HT cũng nói là HT không tin một vị Alahán sau khi viên tịch Niết-bàn chấm dứt 5 uẩn, nói chấm dứt 5 uẩn tức là đoạn kiến. HT nói rằng Đức Phật đã từng làm cha làm mẹ làm thầy làm bạn để độ chúng sanh thì sau khi viên tịch Ngài cũng sẽ trở lại làm cha làm mẹ làm thầy làm bạn để độ chúng sanh.

 Chúng tôi hoàn toàn hiểu tại sao một số các vị suy tư và nghĩ như vậy. Nhưng chúng ta thử lấy 3 thí dụ.
  
1.Thí dụ thứ nhất, mình đang bị nhức răng bây giờ có người đề nghị một phương pháp để trị bịnh nhức răng  như lấy gân máu ở chân răng chẳng hạn. Chúng ta đặt vấn đề là sau khi hết nhức răng rồi thì mình sẽ ra sao? Thật ra không cần đặt vấn đề như vậy, nếu bịnh thì mình cứ chữa thôi, bịnh thì bịnh thôi không cần phải đặt vấn đề mình sẽ ra sao. Đó là một thí dụ

Thí dụ thứ hai, một đứa nhỏ đi học, nó muốn biết là đi học lớn lên sẽ thành ông gì bà gì và mình hết còn thơ dại nữa, không còn nhút nhác nữa thì mình sẽ ra sao, rất khó. 

Thứ ba: Một học giả người Tích Lan viết một đoạn rất thú vị đó: ở trong thế giới trẻ con cái đẹp là những món đồ chơi, con gái thì có búp bê, con trai có xe tăng vũ khí bằng nhựa bằng mủ. Cha mẹ dẫn đứa con đến trường để học và nói rằng một ngày nào đó con sẽ lớn lên thành người tốt thì đứa con đó hỏi rằng khi con thành người tốt phải chăng con có nhiều đồ chơi hơn, thì cha mẹ nói những thứ con chơi bây giờ đến lúc đó không còn giá trị gì nữa. Rất khó khăn để cho một đứa nhỏ nghĩ đến cái gọi là tương lai tươi sáng mà không có những món đồ chơi đó tại vì những món đồ chơi đó là tất cả là sự khao khát ở trong cuộc sống đối với một đứa nhỏ, nhưng với người lớn thì nó không có nghĩa gì hết.

Thì, Hữu Dư Niết-bàn đã khó để cho chúng ta hiểu rõ, để chúng ta mường tượng nói gì đến Vô Dư Niết-bàn. 

Nên phương cách Đức Phật Ngài đề ra cho chúng ta là chúng ta phải thấy rõ sự khổ, thấy rõ nhân sanh khổ, thấy rõ sự diệt khổ và thấy rõ con đường đưa đến sự diệt khổ. Một thí dụ chúng ta nghe trong kinh một người bị mũi tên bắn không cần phải hỏi dài dòng,  vấn đề quan trọng làm sao để rút mũi tên ra. Nếu chúng ta ý thức được khổ trong đời sống này, ý thức thật rõ, thật kỹ về Vô Thường, Khổ, Vô Ngã thì chúng ta chấp nhận Niết-bàn ở trong tri kiến của chúng ta Niết-bàn là cái gì vượt qua ngoài những thứ đó. Vì vậy, Đức Phật đặc biệt Ngài chú trọng đến tính cách thực tiễn. Thực tiễn ở tại đây là chúng ta phải nhìn nhận mình đang có khổ và từ cái nhìn nhận mình đang có khổ chúng ta tìm phương linh dược, tìm phương cách để trị cái khổ đó. Nói cách khác là cái nhìn qua giáo lý Tứ Đế. 

Không dễ dàng để một người phàm chúng ta hình dung được điều đó. Riêng đối với bản thân của chúng tôi thì chúng tôi có hai điều đơn giản thôi:
1. Một là Giác Ngộ.
2. Hai là Giải Thoát.

 Giác ngộ tức là khả năng nhận ra bản chất chung thực của các pháp, nó là Vô Thường thì mình nhận nó là Vô Thường. Nó là khổ mình nhận nó là Khổ. Nó là Vô Ngã mình nhận nó là Vô Vgã. Đó là giác ngộ.
 Và sự giải thoát là nguyện ước khả cầu giải thoát ở đây tức là giải thoát những nỗi đau khổ ở trong cuộc sống chúng ta có những bất an khổ đau. 

 Như mấy hôm nay chúng tôi đi tụng kinh đám tang một người phụ nữ có 7 đứa con nuôi lớn lên thành người trong cuộc sống bao nhiêu vui buồn bây giờ nằm đó thì trở nên vô nghĩa, bây giờ nằm đó nó không có ý nghĩa gì hết. Tại vì một khi thức lìa bỏ thân này thì thân này nằm ở trên mảnh đất nằm, ở trong quan tài giống như khúc gỗ vô dụng. 

Do vậy, Đức Phật Ngài dạy chúng ta rất rõ ràng nếu chúng ta nhìn thấy Sự KhổNhân Sanh Khổ thì chúng ta đủ để tha thiết với sự Diệt KhổCon Đường Dẫn Đến Sự Diệt Khổ. Khi chúng ta hiểu như vậy, khi chúng ta nhận thức như vậy thì chúng ta có thể mường tượng được thế nào là Niết-bàn.

 Qúi vị nhớ một điều rằng Đức Phật chưa bao giờ khuyến khích chúng ta phải thấy được Niết-bàn qua ngôn từ. Mà Ngài nói rằng chỉ có những vị Đoạn Sanh Tử mới thấy được Niết-bàn như là trong bốn tầng thánh vức chẳng hạn.

  Đó là vài điều chúng tôi muốn chia sẻ bài học hôm nay về Vô Dư và Hữu Dư Niết-bàn ./. 

No comments:

Post a Comment