Hỏi: Triển khai tuệ quán (Kinh Như Thị Thuyết)
(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma, ngày 17-6-2014, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng: Khi chúng ta thâm nhập thế giới kinh điển một số người thường nghĩ đến bài kinh dài nằm ở những vị trí quan trọng, nhưng kỳ thực với kinh nghiệm chúng ta đọc kinh điển thấy đó đây trong Tam Tạng kinh điển có những bài kinh ngắn nhưng đặc biệt hết sức quan trọng. Bài kinh hôm nay là một thí dụ, nói về 3 pháp tùy quán.
Chữ "anupassati" động từ là "anupassanà" được chỉ cho khả năng quán chiếu có chiều sâu, nhìn thấy rất rõ sự vật như thế nào chúng ta biết như vậy, biết một cách rõ ràng, nhận thức một cách trung thực, chúng ta gọi là tùy quán.
Và 3 pháp tùy quán ở đây là 3 phương thức tu tập, tạm gọi là 3 sự trang bị cho bất cứ hành giả nào đi vào thế giới của sự tu tập. Ba pháp tùy quán : tùy quán về bất tịnh, tùy quán về hơi thở, tùy quán về sự vô thường.
Trong kinh Phật đôi khi có những cách dịch rất sáng nhưng có nhiều khi làm chúng ta lẫn lộn.
- Thí dụ như là chữ "tịnh giới" ở bài kinh này, hay trong kinh Pháp Cú có câu: "ai nhìn tịnh tướng". Thì khi chúng ta nghe chữ "tịnh tướng" hay chữ "subhāya dhātuyā" chúng ta dịch là "tịnh giới" mình nghe như là giới thanh tịnh, như gìn giữ giới thanh tịnh, nhưng ở đây không phải như vậy.
- Chữ "dhātu" ở đây đặc biệt chỉ cho, thí dụ chúng ta nói nguyên tố hay thành tố, yếu tố, chữ "dhātu" chỉ cho vật chất. Chữ "dhātu" được hiểu rất nhiều ý nghĩa, chúng ta nói về những nguyên tố để kết cấu trong cuộc sống về vật chất cũng như về tâm. Chữ "dhātu" dịch là "giới".
"Tịnh giới" ở đây chỉ cho cái gì đẹp, cái gì mỹ miều, những gì khả ái khả ý.
1. Tùy Quán Bất Tịnh
Với một người tu tập chúng ta luôn luôn phải tỉnh táo và ý thức rằng có những thứ rất đẹp, đẹp đến đỗi chúng ta không cưỡng lại được, chúng ta phải nhìn nhận rằng nó rất đẹp. Và cái đẹp ở tại đây nó đến từ nhiều thứ ở trong cuộc sống.
Ngày hôm nay, người ta có một hệ thống quảng cáo rất tinh vi, những mặt hàng được đưa lên internet hay được chụp hình cho chúng ta một sự bắt mắt đặc biệt và chúng ta dính mắc với điều đó. Có người dính mắc điều gì đó là do ở quảng cáo. Rồi nếu chúng ta đi đến siêu thị, đi đến các cửa hàng ở các trung tâm thương mại thấy có vô số sản phẩm được làm ra được trau chuốt ở mức độ đẹp chúng ta không thể phủ nhận được. Chúng tôi nhớ, khi còn nhỏ sống ở miền quê những món đồ thấy ngoài chợ nó đẹp nhưng thời đó tuổi thơ của chúng tôi thấy nó đẹp nhưng cái đẹp đó nó phù du nó tương đối lắm, dù là cái bàn, cái ghế đẹp cũng vậy. Sau này lớn lên ra nước ngoài sống và đôi khi tình cờ đi ngang những cửa hàng làm những sản phẩm thủy tinh, pha lê, hoặc giả ngay cả quần áo, ngay cả những tác phẩm nghệ thuật rất đẹp, đẹp một cách không có chỗ nào chê được. Chúng ta nói ở trên đời không có cái hoàn hảo nhưng thật sự người ta cố gắng làm một cái gì đó thật tinh tế rất là đẹp. Dĩ nhiên cái đẹp đó làm cho chúng ta dính mắc cuộc sống này. Nhưng đối với tất cả những cái đẹp chúng ta thấy được ở trong đời sống có lẽ cái đẹp chi phối chúng ta nhiều nhất là cái đẹp đối với những người khác phái. Thí dụ người nam đối với người nữ, người nữ đối với người nam. Trong cuộc đời, cuộc sống con người hay có sự dính mắc, nhưng có những người sanh ra họ có cái phước và cũng một phần nữa do phiền não ở trong lòng chúng ta. Chúng ta phải nhìn nhận rằng có những con người họ rất là đẹp, đẹp đến đỗi người ta gọi đẹp như tiên vậy.
Đức Phật Ngài từng dạy rằng: "Này những tỳ kheo, ta không thấy một sắc nào cuốn hút người nam như sắc của người nữ, và không có sắc nào cuốn hút người nữ như sắc của người nam."
Rồi thinh, hương, vị, xúc, pháp cũng vậy. Thinh, hương, vị, xúc của những người khác giới quả thật là có sức hút vô cùng, bởi vì đôi khi chúng ta thấy trong lịch sử có những câu chuyện những người vì mê sắc, mê thinh làm sụp đổ cả giang sơn.
Một điểm làm cho chúng ta trong sự tu tập bị chi phối rất nhiều, đó là những cái đẹp, những cái khả ái, những khả ý của đời sống và những điều này nó không trả chúng ta trở về với một sự tự nhiên mà nó tạo cho chúng ta có một sự dính mắc. Chúng tôi nhớ Ngài Ajahn Cha kể câu chuyện khi Ngài còn là một tăng sinh trẻ, Ngài tu tập và Ngài cảm thấy rằng có những người phụ nữ thỉnh thoảng họ đi chùa lễ Phật rồi họ cúng dường Chư Tăng gợi đến một hình ảnh rất đẹp, rất khả ái, rất hiền hoà thì Ngài thấy tâm của Ngài bâng khuâng bị giao động, bị chi phối rất nhiều. Có một năm Ngài phát nguyện ở trong 3 tháng hạ Ngài sẽ không nhìn những người phụ nữ. Đến cuối mùa an cư đó kể như sau mùa hạ có một nữ Phật tử đến cúng dường và lần đầu tiên Ngài đưa mắt nhìn thì không may là người phụ nữ đó rất đẹp và Ngài cảm thấy suốt thân Ngài bị chao động mạnh.
Đời sống của chúng ta ngày hôm nay cái đẹp của một con người không chỉ đơn thuần là sắc vóc mà nó còn được trau chuốt nào là y phục, nào là mỹ phẩm, nào là dáng dấp. Có thể nói chưa có thời nào con người có thể tự khả năng hay qua những chuyên môn của y học, qua những khả năng của y học có thể làm cho con người trở nên thanh lịch đẹp đẽ hấp dẫn như thời này. Và những điều đó thật sự đôi khi làm chúng ta rất khó tu tập. Lấy ví dụ, như nghĩ đến chuyện tu mình muốn giải thoát, mình muốn rời khỏi thế giới này nhưng sống ở trong một thế giới có qúa nhiều sự cuốn hút, có quá nhiều cái đẹp, và sự tu tập thì trồi lên trụt xuống giống như người leo núi. Nhiều khi người ta nản người ta rất dễ để trở về với cuộc sống đắm chìm trong những cái đẹp đó, nhất là người ta có phương tiện để được như vậy.
Căn bản mà nói,là một hành giả phải tự thành thật nhìn nhận rằng chúng ta không có nhiều khả năng để đương đầu với những ma chướng, đương đầu với những cám dỗ, đương đầu với những cuốn hút như vậy. Một trong những điều tốt nhất là thường tùy quán bất tịnh. Tùy quán bất tịnh ở đây hành giả thường xuyên thấy được những bất tịnh ở trên thân thể của chính mình và từ đó mình hiểu thân thể của người khác. Mình cứ lấy thân thể mình mặc dù nhìn ở bên ngoài tắm rửa thường thì không sao nhưng vài ba ngày ví dụ như đi một chuyến bay dài trở về nhà thấy thân mình cần phải tắm rửa vì nó có mùi. Và qua bao nhiêu thứ bất tịnh ở trong thân của chúng ta.
Khi chúng ta nhìn thấy những liệt kê như: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, xương, mật, đàm, mủ, máu, nước tiểu, phân v.v... trong bản thể trược thì mình thấy nó vô nghĩa, mình thấy không biết nêu ra để làm gì, nhưng thật ra với mục đích hành giả tu tập thì mỗi một thể trượt như vậy nó đều cho chúng ta một cách nhìn. Như tóc mình không gội rửa không chải chuốt sẽ xấu nó có mùi. Và trên da của chúng ta cũng vậy. Móng tay móng chân chúng ta cũng vậy. Thật ra thân thể con người có một điểm rất trái ngược là ở một điểm nào đó mình đã nhìn thấy nó rất hấp dẫn, rất đẹp, rất cuốn hút nhưng nếu nhìn kỹ ở phương diện khác thì nó thay đổi liên tục, và nó là bất tịnh, là một ổ bệnh tật. Và những lần chúng ta có dịp nhìn xác chết hay những lần kể cả chất bài tiết từ trong người chúng ta ra bên ngoài thì chúng ta thấy nó uế trượt như thế nào. Có nhiều người họ rất tâm đắc về bên ngoài. Cái đẹp nó chỉ mỏng may như lớp da bên ngoài thôi. Thân của chúng ta đẹp là nhờ lớp da. Thí dụ có người sanh ra nhờ phước nên da trắng mĩ miều rồi thêm một chút trang điểm nhưng ở bên trong bộ da đó là thịt, xương, gân và bao nhiêu thứ thể trượt và ngoài thể trượt đó còn là một ổ bịnh. Ban đầu chúng ta không dễ chịu khi quán về bất tịnh vì nó dường như làm chúng ta không có thoải mái.
Chúng tôi sống ở bên Mỹ lúc sau này có rất nhiều trường hợp chúng tôi gặp những Phật tử nhất là những người Phật tử lớn tuổi có tiền họ muốn có một lối sống gọi là thời thượng. Là khi mình lớn tuổi rồi mình có tiền bạc mình mua một căn nhà ở nơi thích hợp, căn nhà có một phòng gọi là thiền phòng trang trí rất đẹp, rất thiền vị theo kiểu Nhật Bản, nghĩa là có treo tranh, có tượng Phật đẹp, có một khung cảnh đẹp, ánh sáng rồi màu sắc hợp với tất cả mọi thứ. Thậm chí họ còn có bộ quần áo ngồi thiền rất thoải mái bằng vải cotton, thêm cái tọa cụ trông rất kỹ càng. Những lần họ mời chúng tôi đến nhà trình bày với chúng tôi thấy những nỗ lực để làm sao làm một thiền phòng rất đẹp như vậy. Thì thật ra điều đó cũng là một thiện chí, chuyện đó cũng là một cách làm tạo nên nét văn hóa của Phật Giáo. Nhưng kỳ thực đối với một hành giả tu tập thiền định thì những điều đó nhiều khi phản tác dụng. Thay vì chúng ta có thể sống thật, quán chiếu thật với thân tâm của mình thì chúng ta lại tô hồng chuốc lục, chúng ta lại điểm trang cho nó.Dĩ nhiên, ở đây chúng ta điểm trang một cách rất thiền vị theo kiểu Nhật Bản, tức là có một không gian vắng và ở trong đó cho chúng ta cảm giác một bàn Phật rất trang nghiêm thanh tịnh, một tọa cụ, rồi quần áo ngồi thiền thích hợp. Nhưng những thứ đó không đưa chúng ta đến gần với Phật.
Chúng tôi nhớ 2 năm trước khi Ngài Hộ Giác tịch có những lần chúng tôi nói chuyện với Ngài thì Ngài thích tụng bài kinh Girimànanda. Khi tụng kinh Girimànanda Ngài hay nói về những sự bất tịnh của cơ thể. Thật ra, có lẽ là vì chúng tôi quá thương Ngài, Ngài như ông Cha ông Thầy khi ở gần mình không thấy có cái gì gọi là bất tịnh. Thật sự thì Ngài cũng rất sạch sẽ nhưng phải nói rằng cái thân khi nhuốm bịnh thì có đủ thứ chuyện, khi đi lọc máu thì máu trong người chảy ra. Hồi Ngài còn trẻ Ngài nổi tiếng là vị Pháp Sư có ngoại hình rất thanh nhã rất thanh lịch bây giờ nhìn cái thân đúng như lời cảm nhận của Ngài; da cằn cỗi đổi đồi mồi rồi trốc lên. Chúng ta mới thấy được là ở trong cuộc sống nhìn ở bên ngoài không nhìn thấy được cái bất tịnh của thân, cái mà gọi là cái đẹp cái mĩ miều của chúng ta nó chỉ bên ngoài và chỉ một thời một khắc. Hôm nào đó, mình thử ngủ buổi sáng thức dậy chưa tắm rửa nhất là những người thường trang điểm mà chưa trang điểm chưa tắm rửa thì lúc đó chúng ta thấy nó bất tịnh. Đức Phật Ngài dạy chúng ta nên dùng cái tướng của sự bất tịnh đó để chúng ta thấy mẫu số chung là những sắc pháp dù quá khứ, hiện tại, những sắc uẩu dù quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần xa thì chỉ là sự bất tịnh mà thôi.
Với một hành giả tu tập hiểu rằng sự dính mắc vào những cái đẹp, dính mắc vào những cái khả ái luôn luôn là sự đe dọa rất lớn đối với sự tu tập, nó chi phối rất lớn đối với chúng ta, và một cách tốt nhất để đối phó với sự chi phối đó là quán bất tịnh. Ban đầu thì không có dễ, ban đầu chúng ta cảm thấy thật là khó tại vì ai trong chúng ta cũng cần đẹp, ai trong chúng ta cũng muốn thấy là mình khả ái do vậy chúng ta thường khỏa lấp nó bằng cách trau chuốc, bằng cách tắm rửa, bằng cách điểm trang, bằng cách ăn diện. Nhưng kỳ thật nếu chúng ta thường xuyên sống với quán bất tịnh thì mình thấy cái mà mình thích nhất, cái mà mình hoan hỉ nhất, cái mà mình thường qúi trọng nhất đó là thân của mình như vậy thì thân của tất cả mọi người cũng vậy, người đẹp cũng 32 thể trượt mà người xấu cũng 32 thể trượt, nam cũng vậy, nữ cũng vậy. Điều đó có thể giúp chúng ta rất là nhiều là bớt đi sự dính mắc.
Hình ảnh như vậy là hình ảnh của một người tu tập giống như một người đi trên đường, trên con đường đó có những chỗ rất đẹp rất hấp dẫn, nào là hoa cỏ nào là sông suối, nào là cảnh trí hữu tình, nhưng nếu chúng ta không tiếp tục lên đường mà dính mắc ở lại những nơi đó thì rồi cuối cùng chúng ta sẽ dang dở và ở tại chỗ đó không phải là chỗ mình ở lại. Tưởng tượng mình đi gặp cảnh đẹp và mình ở lại không đi đâu tiếp thì chúng ta không tiếp tục hành trình được không làm được cái gì hết. Chúng tôi nhớ khi còn nhỏ có một vài cảnh tượng rất thú vị là có một vài em bé được cha mẹ dẫn vào chợ thì những em bé này thích ở lại, mà trẻ em cha mẹ chìu rồi sanh tật, đến giờ phải đi về cha mẹ ẵm đi về thì nó không chịu nó khóc nhất định ở lại đó. Thì chúng ta cũng vậy chúng ta thường bị những cuốn hút của cuộc sống làm chúng ta dặm chân, làm cho chúng ta dính mắc, làm cho chúng ta không thể tiếp tục cuộc hành trình, chúng ta giống như một đứa trẻ đến thăm Disneyland rồi ham chơi không chịu về nhưng không thể nào sống ở đó hoài làm sao mà ở trong Disneyland từ ngày này qua ngày kia được, cuộc chơi nào cũng tàn và tất cả những cái đẹp đó trong cuộc sống cũng chỉ là một giai đoạn.
Thì như vậy để một hành giả có khả năng tiếp tục lên đường, mình sống mà nghĩ đến tịnh tướng tức là nghĩ đến sự mĩ miều sự khả ái thì chúng ta không đi tới được. Thật ra trong cuộc sống ngày hôm nay nhất là chúng tôi có dịp đi thăm Ấn Độ, đi thăm những ngôi làng, đến những ngôi làng đó thì mình mới thấy là tại sao chúng ta ở Mỹ chúng ta bị dính mắc nhiều hơn, bởi vì có những nơi họ quá nghèo, làm ăn lam lũ một nắng hai sương, con người làm lụng vất vả nên con người cũng không có đẹp, nhà cửa không có đẹp, phố xá cũng dơ dáy, chúng ta không dính mắc thì dễ. Nhưng khi chúng ta về một nơi tương đối có tiện nghi vật chất, ra đường thì ở đâu cũng thẳng tắp cũng sạch sẽ cũng lịch sự, về nhà thì nhà cửa cũng rất đẹp, bản thân của mỗi người thì quần áo y phục trau chuốc. Tất cả những điều đó làm chúng ta dính mắc trong đời sống. Nhưng mà rồi tất cả chúng ta hiểu rằng sự dính mắc đó ngăn ngại không cho chúng ta đi tới nữa.
Nên chi ở trong những điều kiện thuận tiện chúng ta cũng cần quán bất tịnh. Quán bất tịnh ở đây là nhìn thấy đặc biệt những cái gì không khả ái khả ý trên cái thân của mình, cái thân của mình lúc đó chưa tắm, thân mình chưa trang điểm, qua những bài tiết của thân, qua những xuyên xúc qua cái túi da đựng thân này thì ngoài cái da bên ngoài bên trong thì chúng ta thấy nào là máu, mủ, nào là bệnh tật, nào là đủ thứ hết. Nhìn được như vậy thì chúng ta mới nhẹ lòng, tâm chúng ta mới nhẹ nhàng và tiếp tục lên đường.
Sự dính mắc nó là một trở lực rất lớn làm chúng ta không đi tới được và do vậy tùy quán bất tịnh nó giúp rất nhiều.
Qúi vị nên nhớ, ở trong bài học này:
Chữ "tịnh giới" ở đây chỉ cho cái gì khả ái khả ý, cái gì đẹp, cái gì mĩ miều, cái gì hấp dẫn quyến rủ thì gọi là tịnh giới.
Tham Tùy Miên là sự dính mắc tiềm ẩn ở trong chúng ta, cái sự tiềm ẩn đó luôn luôn là cái mà chúng ta phải rất cẩn thận.
2. Tùy Quán về Hơi Thở
Bây giờ chúng ta nói đến pháp quán thứ hai là tùy quán về hơi thở. Tùy quán hơi thở ở đây là một người có khả năng giảm bớt "hướng ngoại".
"Hướng ngoại" ở đây là tối ngày chúng ta nghĩ chuyện thiên hạ, chuyện ở bên ngoài mà không quán chiếu lại chính mình. Chúng ta có một cái bịnh bởi vì chúng ta là người dục giới, chúng ta thường sống với sắc, thinh, khí, vị, xúc, do đó tâm chúng ta hướng ra bên ngoài, khi tâm hướng ra bên ngoài thì bao giờ cũng có vấn đề. Như mình muốn chỉ trích ai đó mình cứ nói về người đó một hồi mình sẽ có lý do để chỉ trích. Người ta nói "bói ra ma quét nhà ra rác", những người có tật ngồi lê đôi mách hay nói chuyện thiên hạ cứ ngồi nói thiên hạ hoài thế nào cũng có chuyện để nói. Tâm chúng ta cũng vậy, tâm chúng ta thường nghĩ chuyện đông, tây, nam, bắc, chuyện ở bên ngoài, và chúng ta càng nghĩ thì càng lan man, mà càng lan man thì chúng ta càng có những tiêu cực của đời sống. Không ai ngồi nói chuyện thiên hạ, không có ai ngồi lê đôi mách, không có ai chỉ trích người khác mà càng lúc càng không có vấn đề. Có những người xem chuyện đó như là lẽ sống, sống không thể nghĩ đến chuyện thiên hạ.
Tại vì sao vậy? Tại vì bản thân của mình không có chỗ để trở về, tại vì bản thân của mình mình không có gì để an trú. Chúng ta phải hiểu rằng tâm hướng ngoại là tâm lan man, tâm hướng ngoại đó là tâm làm cho chúng ta không định tỉnh được.
Có sự khác biệt giữa một người có tu và một người không tu: Người có tu tập trong ngày ít nhất cũng phải có vài phút, phải có vài giờ mình trở về lại với hơi thở của chính mình. Mình biết và mình ý thức được sự chi phối từ ở bên ngoài, nếu mình sống mà mình cứ lo chuyện thiên hạ mình sống cứ hướng ngoại hoài thì tâm mình không ổn được. Chúng tôi thường thấy một điều là nếu mình thường đọc Phật ngôn, thường đọc kinh sách thì tâm mình hướng về Phật pháp nhiều hơn, nếu mình thường sống nội tâm hướng vào hơi thở thì tâm mình bớt sự chi phối ở bên ngoài và vì vậy chuyện tu không phải là sự bắt buộc, chuyện tu là phương pháp để chúng ta giảm thiểu sự chi phối.
Ở đây, niệm hơi thở Đức Phật dạy là: ngồi xuống để niệm trước mặt. Niệm trước mặt là niệm hơi thở qua sóng mũi chẳng hạn, tập trung, có tập trú và không dự phần vào tổn hại.
Tổn hại ở đây là chúng ta bây giờ ngồi nói chuyện với ai đó mình nói một hồi thì có phiền lụy, nói một hồi có phiền phức tại vì mình nói một hồi thể nào mình cũng chỉ trích người ta, mình chỉ trích người ta cũng là làm phiền cho mình. Sự phiền não đến từ hướng ngoại rất là nhiều.
Do vậy, một người có tu tập hiểu được sự an tịnh của nội tâm, ngồi nhìn vào hơi thở, làm bạn với hơi thở, thân thiết với hơi thở, và hơi thở là điểm tựa của mình. Thời giờ rảnh để làm gì, tốt hơn hết mình nhìn vào hơi thở, tốt hơn hết hướng nội, tốt hơn hết quán chiếu toàn thân hơn là nghĩ chuyện của người khác. Chúng ta cứ đem chuyện hàng xóm chuyện người khác ra nói, chúng ta nói không bao giờ hết chuyện, chúng ta càng nói thì chúng ta càng phiền não. Chúng tôi chưa thấy có một ai sống trong cuộc đời mà hay nói chuyện thiên hạ đời sống họ được thăng hoa mà chỉ thấy đi xuống. Và một điều người hành giả tu tập chúng ta phải thấy rằng thế giới này chúng ta có đàm tiếu bao nhiêu, chúng ta có thị phi bao nhiêu, chúng ta có chỉ trích bao nhiêu cũng vậy thôi, mình đừng nghĩ chuyện đó quá quan trọng để mà mình làm. Cái chuyện quan trọng nhất là mình trở về với tâm định tỉnh.
Thật ra bài Phật ngôn này là một bài thần chú chúng ta nên tụng, nên là những câu kinh nhật tụng để chúng ta thường tụng. Bài kinh này nếu chúng ta đọc rất kỹ, rất là quan trọng đối với một hành giả tu tập, chỉ riêng về niệm hơi thở thôi Đức Phật dạy rằng:
- "Khéo an trú hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt hướng về nội tâm thời các tâm hướng ngoại dự phần vào tổn hại không có".
Tâm mà hướng ngoại tâm dự phần vào tổn hại không có nhờ sự an trú vào hơi thở. Ở đây chúng ta hiểu như vậy. Tâm của chúng ta không có chỗ tựa không có chỗ cột thì nó sanh sự. Qúi vị có con nhỏ, qúi vị không có một công việc cho nó làm như là học bài hay làm việc này việc kia để nó lang bang hồi sanh sự đâm ra có vấn đề. Tâm chúng ta cũng vậy, tâm chúng ta nếu không có chỗ nương tựa thì nó có vấn đề. Chúng tôi nói là không phải chi với một người phàm mà ngay cả bậc thánh giải thoát khi các Ngài bình thường không có gì các Ngài luôn trú vào hơi thở, có một lần tôn giả Xá Lợi Phật ngồi trước Đức Phật ngồi cách Đức Phật không xa và trong lúc Đức Phật yên lặng thì Tôn Giả Xá Lợi Phất cũng yên lặng và Ngài nhìn vào hơi thở thì Đức Phật Ngài dạy chư tỳ kheo là phải học tập điều đó như Tôn Giả Xá Lợi Phất. Không phải như chúng ta lúc rảnh quá không có việc gì để làm rồi suy nghĩ miên man, rảnh quá không có chuyện gì làm nghĩ chuyện thiên hạ, rảnh quá không có chuyện gì làm thì chúng ta sanh ra phiền não. Thì nếu có được thời giờ như chờ đợi ở bến xe, chờ đợi đâu đó thì hướng tâm vào mình đang thở vào hay thở ra. Quán niệm hơi thở rất là mầu nhiệm.
3.Tùy Quán Vô Thường.
Tùy quán thứ ba ở đây Đức Phật dạy đó là "tùy quán vô thường đối với tất cả các hành, thời vô minh trừ diệt, minh được khởi lên". Tuỳ quán vô thường hay nói rõ hơn là tùy quán đối với sanh và diệt, nói rõ hơn nữa đó là với một sự khởi sanh chưa có bây giờ có gọi là sanh, rồi có rồi biến mất gọi là diệt.
Thật ra, đối với các vị thiền sư cái minh và cái vô minh dễ định nghĩa, cái vô minh có nghĩa là sanh không biết diệt không hay còn minh có nghĩa là thấy rõ sanh và diệt. Bây giờ mình sống trong một ngôi nhà mà cái gì hư, cái gì thay đổi, cái gì chuyển biến chúng ta cũng không biết. Có một số vị sống ở trong chùa sống bằng tâm gọi là vô tâm, vô tâm là sự nguy hại, sự an nguy sự mất mát ở trong một ngôi chùa mà mình là vị tu sĩ sống trong chùa mình không cần biết mặc dầu đó là chỗ mình sống. Có những người sống ở trong một ngôi nhà mà người ta đi ra đi vô mình cũng không biết. Hồi nhỏ chúng tôi có nghe ông ngoại nói một câu "ở nhà thì con cái thì không có mắt, cha mẹ thì có một mắt mà ăn trộm có hai con mắt, ăn trộm thì để ý rất chi tiết cẩn thận còn người chủ nhà cũng có con mắt để ý nhưng lo chuyện khác còn con cái thì mù không để ý", cái chuyện sanh không biết diệt không hay đó là cái chuyện che mắt chúng ta tại vì chúng ta không tỉnh táo, chúng ta không ý thức rõ cái gì sanh cái gì diệt. Một niềm vui sanh khởi tự nhiên mình cảm thấy mình vui mình không biết tại sao mình vui, lúc mình buồn mình không biết tại sao mình buồn và niềm vui đó tan biến lúc nào mình cũng không biết, nó đến lúc nào không biết, lúc nó tan biến lúc nào mình không biết. Thì mấu chốt của cuộc sống đó là sanh và diệt, hễ mình nhìn thấy rõ sanh và diệt thì mình giảm bớt sự chi phối của vô minh nhưng mà nếu sanh không biết diệt không hay thì cái đó là dấu hiệu của vô minh.
Về điều này thì Phật học cho chúng ta một lý giải rất khác biệt qua cái nhìn bình thường. Đối với người bình thường thì sự sáng suốt nó nằm ở chỗ nào? Sự sáng suốt nằm ở học nhiều hiểu rộng, sự sáng suốt là mình xem một cuốn phim ý nghĩa, đọc một cuốn sách hay, sự sáng suốt ở đây có nghĩa là mình có khả năng làm chuyện gì đó một cách tài tình.
Nhưng mà riêng đối với Phật Pháp cái chữ sáng suốt đó là cái sự vắng mặt của Vô Minh và sự vắng mặt của vô minh ở đây là thấy rõ được Sanh và Diệt, thấy rõ được cái gì đến cái gì đi.
Về điều này thì Phật học cho chúng ta một lý giải rất khác biệt qua cái nhìn bình thường. Đối với người bình thường thì sự sáng suốt nó nằm ở chỗ nào? Sự sáng suốt nằm ở học nhiều hiểu rộng, sự sáng suốt là mình xem một cuốn phim ý nghĩa, đọc một cuốn sách hay, sự sáng suốt ở đây có nghĩa là mình có khả năng làm chuyện gì đó một cách tài tình.
Nhưng mà riêng đối với Phật Pháp cái chữ sáng suốt đó là cái sự vắng mặt của Vô Minh và sự vắng mặt của vô minh ở đây là thấy rõ được Sanh và Diệt, thấy rõ được cái gì đến cái gì đi.
Đơn giản như vầy, cuộc sống của chúng ta luôn luôn là sự đắp đổi của nhiều yếu tố hiện hữu, mình thấy mình ngồi, khi bắt đầu vào ngồi mình cũng ý thức là mình sắp ngồi, và khi mình đứng dậy đôi khi mình quên đi là mình đã không ngồi nữa, mình không ý thức được sự vận hành sự thay đổi của đi đứng nằm ngồi. Những cái vui buồn, không vui không buồn, sự luân chuyển đó chúng ta cũng không để ý lúc nào cái vui đến, lúc nào cái vui đi, lúc nào cái buồn đến, lúc nào cái buồn đi, hơi thở ra vào chúng ta cũng không ý thức và hầu như ít khi chúng ta nhìn thấy được sự sanh diệt ở trên thân và ở trong giờ phút này. Và tùy quán về sự vô thường Đức Phật cho chúng ta biết giúp cho chúng ta rất là nhiều để giảm thiểu sự chi phối của vô minh, chẳng những giảm thiểu được sự chi phối của vô minh mà còn làm cho chúng ta đến một mức độ chúng ta gọi là tỉnh giác.
Thật ra chữ Buddha là Phật Đà hay là bậc giác ngộ, bậc tỉnh thức, bậc luôn luôn thấy rõ thấy biết, không quên mình. Thì ở một mức độ sâu lắng nhất là một người tỉnh giác một người thấy rõ cuộc sống là một người thấy được sự sanh diệt, thấy được sự sanh diệt đó là tùy quán về sự vô thường, chúng ta hãy nhìn lại chung quanh những gì vốn đã có bây giờ không còn nữa, một người rất thân của mình hay là thưa qúi vị tuần vừa rồi cách đây một tuần chúng tôi đi với một số Phật tử sang Âu Châu ngồi trên một chuyến xe lửa ở Thụy Sĩ cảnh núi đồi ở chung quanh rất là hữu tình một ngày đẹp trời qúi vị ngồi uống một tách trà uống ly cafe ở trên xe lửa qúi vị nói ở đây giống như thiên đàng. Bây giờ nhìn lại thì nó chỉ là một dĩ vãng một quãng thời gian và bây giờ nó đã là quá khứ, hiện tại nó không còn nữa. Chúng ta thấy nó trợt đến trợt đi, nó trợt ẩn trợt hiện, cuộc sống nó là như vậy và khi nào chúng ta ý thức được"àh, hồi nãy cái này nó không có bây giờ nó có nó đang sanh khởi nó vừa sanh khởi, và bây giờ hồi nãy nó có bây giờ nó không còn nữa đó là diệt, chúng ta thấy được đầu mối sanh và diệt.
Thì bài kinh này Đức Phật Ngài dạy cho chúng ta về ba trang bị của hành giả tu tập: Trang bị đầu tiên nói về tùy quán bất tịnh. Chúng ta nhớ tùy quán ở đây tức là sự quán chiếu có chiều sâu, sự quán chiếu thẩm thấu, sự quán chiếu như thực, sự vật như thế nào mình nhận nó như vậy gọi là "tùy quán - anupassanà" rất là quan trọng và chúng ta đọc kỹ đoạn này thì chúng ta thấy rằng đây lời kêu gọi của Đức Phật:
"Này các Tỳ Kheo, hãy sống tùy quán bất tịnh trên thân (trên thân tức là trên chính bản thân của mình) hãy khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm; hãy sống tùy quán vô thường trong tất cả các hành"
Quán bất tịnh thì quán trên thân của mình, từ thân mình mình thấy rõ sự thực là vậy. An trú chánh niệm ở hơi thở vô và hơi thở ra, đặt niệm trước mặt hướng về nội tâm. Và rồi quán vô thường đối với tất cả các hành, đối với tất cả pháp hữu vi, đối với tất cả những cái mà người ta gọi là thọ tưởng hành thức hay là danh sắc. Chữ các hành ở đây nó nhiều phạm trù, chúng ta hiểu nó là danh sắc, hiểu là năm uẩn. Thì thưa qúi vị Đức Phật cũng dạy rõ thêm:
- "Này các Tỷ-kheo, khi sống tùy quán bất tịnh trên thân tham tùy miên đối với tịnh giới được đoạn trừ" . Khi mình quán bất tịnh trên thân này thì cái dính mắc cái tham ngủ ngầm, tham tùy miên đối với những cảnh khả ái khả ý được đoạn trừ.
"khi khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm, thời các tâm hướng ngoại, dự phần vào tổn hại không có". tâm hướng ngoại ở đây tức là tâm lông bông tâm miên man.
"dự phần vào tổn hại" tức là nó tạo ra những phiền lụy rắc rối cho mình và cho người khác không có, một người mà thường niệm hơi thở thì bớt đi việc đó.
"Khi sống tùy quán vô thường trong tất cả các hành thì vô minh được trừ diệt, minh được khởi lên". Sống mà thấy rõ sanh diệt của các pháp, cái sanh và cái diệt thì vô minh được trừ diệt và minh sanh khởi.
Những điều này không có xa lạ, những điều này không phải thế giới xa xôi với người Phật tử thường tu học, nói lên những điều rất gần rất cụ thể. Chúng ta tự hỏi mình tu mình có cái gì để mình làm hành trang, có cái gì gọi là cái sở đắc để mình có thể xử dụng được khi mình cần, thì đó là khả năng tùy quán bất tịnh, đó là khả năng tùy quán hơi thở, đó là khả năng tùy quán vô thường, nếu chúng ta có được 3 pháp tùy quán này thì chúng ta có thể đương đầu với sự dính mắc đối với những điều quyến rủ đối với cám dỗ để chúng ta tiếp tục lên đường và để chúng ta có khả năng hướng nội bớt đi những cái miên man viễn vông ở bên ngoài tạo ra cái phiền lụy cho mình và người khác, và để cho chúng ta thắp sáng được trí tuệ diệt trừ vô minh. Ba pháp này thật ra là 3 điều rất là lợi lạc cho bất cứ hành giả tu tập nào.
Quán bất tịnh trên thân,
Niệm thở vô thở ra,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Thường nhiệt tâm, chánh kiến,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Ðã thấy rất chơn chánh,
Từ đấy ở nơi đây,
Vị ấy được giải thoát,
Thắng trí được thành tựu,
Lắng dịu thật an tịnh,
Vị ẩn sĩ như vậy,
Chắc vượt khỏi ách nạn.
Chúng tôi không biết rằng qúi Phật tử ở trong rơom ở đây qúi vị đến từ nơi nào, có thể qúi vị đang ở là buổi sáng, có thể là buổi tối hoặc buổi trưa nhưng ở trong cuộc sống của chúng ta có những giờ phút an lạc, chúng ta đọc những câu Phật ngôn này chúng ta nhớ rằng Đức Phật là một vị Chánh Đẳng Chánh Giác điều mà Ngài dạy mang lại cho chúng ta những giá trị thật sự trong cuộc sống những giá trị đó do Đức Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tiền vượt ngoài thời gian đến để chứng nghiệm hiện năng hướng thượng và được nhận biết bởi người có trí. Chúng ta đọc kỹ câu kinh này, chúng ta nghiệm thử bài kinh này, có giống với những điều Phật dạy như vậy không, những bài kinh này phải được khéo thuyết, có phải thiết thực hiện tiền, có phải vượt ngoài thời gian, có phải đến từ chứng nghiệm, có phải có hiệu năng hướng thượng, có phải chứng bởi bậc trí không? Chúng ta thấy được điều đó chúng ta mới thấy được tinh hoa của Phật Pháp chúng ta cảm nhận được chúng ta mới thấy cái lợi lạc mà Đức Phật Ngài đã dạy cho chúng ta.
Và chúng ta mong rằng 3 pháp này sẽ là 3 pháp trang bị cho tất cả những người con Phật cho tất cả những người tu tập và chúng ta thấy rằng ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đừng nói rằng mình tay không mình phải đối diện với kẻ thù, thật ra đối diện với ma chướng thì chúng ta cần có cái trang bị của mình và mong chúng ta lên đường dũng cảm được trang bị đầy đủ giống như một chiến sĩ thiện chiến sẵn sàng đối đầu với quân địch ./.
Và chúng ta mong rằng 3 pháp này sẽ là 3 pháp trang bị cho tất cả những người con Phật cho tất cả những người tu tập và chúng ta thấy rằng ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đừng nói rằng mình tay không mình phải đối diện với kẻ thù, thật ra đối diện với ma chướng thì chúng ta cần có cái trang bị của mình và mong chúng ta lên đường dũng cảm được trang bị đầy đủ giống như một chiến sĩ thiện chiến sẵn sàng đối đầu với quân địch ./.
No comments:
Post a Comment