Hỏi: Chúng ta nên chuẩn bị những gì cho giây phút cận tử?
(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng: Hãy tưởng tượng rằng hơi thở của chúng ta đang yếu ớt và chúng ta đang đối diện với cái chết gần kề mà những công chuyện đối diện lúc đó nó trở thành vô nghĩa những thứ đó không mảy may giúp chúng ta nâng cao đời sống của mình, không làm cho chúng ta cảm thấy phấn chấn hoan hỷ, thì cái gì trong giây phút đó làm cho chúng ta cảm thấy hân hoan, chính là thiện sự của mình đã làm, trong cuộc đời mình đã cứu giúp ai đó, đã làm phước sự gì mà chúng ta làm hoàn toàn bằng tâm tư trong sáng không nghĩ hơn thiệt, chúng ta đã làm việc gì có ý nghĩa mang lại lợi ích cho nhân quần, cho xã hội, cho đất nước, chính những thứ này ảnh hưởng đến tâm tư của mình, mình thấy mình mãn nguyện, mình thấy mình có phát tâm trong sạch, mình thấy mình có thể vui được, nói theo ngôn ngữ nhân gian là mình có thể ngậm cười nơi chín suối, có nghĩa là chúng ta thấy có thể hài lòng được với đời sống của mình, thì phải nói rằng người nào đã có được duyên may làm thiện được và không những thế mà còn nhớ nghĩ đến điều thiện thì người đó về sau này có thể nói có một điểm tựa, có một chiếc phao, có hành trang để lên đường và hành trang đó hữu dụng đặc biệt là trong giây phút chuyển tiếp của đời sống, những giờ phút mà chúng ta vô cùng cần thiết những thứ này.
Làm Thiện: Việc chuẩn bị tư lương là một việc ít khi người ta làm, do đó người ta thường cầu mong để tâm tư gắn bó cái gì đó hơn là phước nghiệp của mình đã làm, tuy nhiên phải có làm thiện, phải thấy được giá trị của thiện và phải hoan hỷ trong điều thiện thì hồi ức của chúng ta hay sự tưởng nhớ của chúng ta mới có giá trị, mình phải làm điều thiện là điều đó phải làm cho tâm tư mình trong sạch, con người sống 100 năm ở đời thì cũng phải có một vài giây phút mình biết quên mình, quên mình tức là hàng ngày chúng ta đi làm rất khổ công thì chúng ta nghĩ rằng mình làm cho mình, mình xây dựng tài sản của mình, mình làm vì những người thân của mình.
Có những lúc chúng ta làm thiện mà hoàn toàn không nghĩ đến của tôi, đến tự ngã của tôi nữa mà chỉ làm để làm thôi. Có đôi lúc mình có mặt ở một nơi nào đó do nhân duyên nào đó để làm thôi, có đôi lúc mình có mặt ở một nơi nào đó do nhân duyên nào đó để làm với tâm trong sạch hoàn toàn, và không những vậy chúng ta còn cảm nhận được điều thiện tức là có sự hiểu biết rằng đó là việc thiện làm với tâm trong sạch. Có người làm điều tốt nhưng họ không ý thức được đó là điều tốt, ý thức được điều tốt là việc hết sức quan trọng, phải hiểu được Phật pháp, phải hiểu được lẽ trung thực của đời sống, thì bấy giờ chúng ta mới thấy đuợc tại sao điều đó là điều thiện hay điều bất thiện.
Thính Pháp: nghe pháp cũng là điều lợi lộc, những lúc qúy vị nghe pháp như chúng ta đang có mặt tại đây nó không chỉ trưởng dưỡng trí tuệ mà còn trưởng dưỡng thiện tâm nữa. Một người đối với điều thiện mà có trí tuệ thì người đó mới thấy giá trị, nếu nói là có giá trị đối với trần gian này thì nó thật sự không có giá trị đối với một người không biết thưởng thức nó, chúng tôi xin đưa ra một thí dụ là có một lần có một Phật tử vào giúp chúng tôi soạn sách và họ thấy một quyển sách nói về pháp chánh định do Ngài Hộ Tông viết - có nhiều người Phật tử khi cầm quyển sách đó họ không thấy giá trị gì - nhưng người Phật tử này đặc biệt rất thích thú với quyển sách này bởi vì lần đầu tiên họ đọc được sách tiếng Việt đề cập đến những đề mục thiền định chi tiết như vậy nên rất mừng, và khi vị đó hỏi mượn thì chúng tôi đã biếu cuốn sách cho vị đó vì chúng tôi có một bản khác, có nhìn ánh mắt hoan hỷ của vị đó và nhìn thấy giá trị mà vị đó trang trọng đối với cuốn sách đó thì phải nói rằng phải hiểu Phật Pháp thì mới thấy giá trị nếu không thì sách nào cũng giống nhau thôi.
Có lần chúng tôi đi với TT Huyền Việt vào một vườn bách thảo của những thành phố, vào tới vườn bách thảo thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp ánh mắt của TT Huyền Việt có niềm vui khi nhìn thấy một vài loại cây kiểng, bởi vì TT là người trồng cây nên ưa thích những loại cây như vậy, thì mình thấy được giá trị điều gì thì mới hoan hỷ được điều đó, do vậy làm thiện với tâm trong sạch rồi mình biết được giá trị của điều thiện thì nó lại là cái ưu điểm khác.
Hoan hỷ với điều thiện, biết điều thiện mà không học tính hoan hỷ của điều thiện, đôi lúc chúng ta không thâm nhập được điều thiện, hoan hỷ là một đức tính rất lợi ích trong đời sống của chúng ta, khômg may là phần đông người ta sống bằng tâm ganh tỵ, tức là tâm đố kỵ, cũng thời lễ trai tăng đó nếu mình làm thì thấy nó có giá trị, nếu người ta làm thì mình bỉu môi dè sẻn, cũng một sự hy sinh đó nếu mình làm thì mình thấy nó to lớn thấy nó có ý nghĩa nhưng nếu người khác hy sinh thì mình có lời ra tiếng vào. Người nào có tâm đố kỵ trong đời sống và lại đố kỵ với việc thiện thì đó là sự bất hạnh, bất hạnh là đôi khi họ nghĩ về điều thiện mà tâm vui không trọn. Đúng ra thì với bất cứ người nào với tâm tùy hỷ biết vui theo điều thiện pháp thì dù ở nơi nào có thiện pháp thì đều hoan hỷ, nếu qúi vị là người ưa chuộng văn hoá thì dù bài nói chuyện của một nhà văn xa lạ, ngay cả người mình không thích đi nữa mà có gía trị thì chúng ta cũng không vì sự thiếu cảm tình với diễn giả đó mà chúng ta lại không thưởng thức được đề tài mà vị đó đang nói. Chúng ta thưởng thức một đóa hoa đẹp dù đóa hoa đó mọc trong vườn của mình hay trong vườn của người khác mà cái hoa đẹp mình biết thưởng thức thì cái hoa chỉ là cái hoa thôi. Thì tương tự như vậy nếu chúng ta là người thường biết hoan hỷ với thiện pháp thì ở đâu có mặt thiện pháp thì ở đó chúng ta hoan hỷ và chính vì điểm này khi nào chúng ta nghĩ về thiện pháp mà mình đã làm và người khác đã làm thì chúng ta đều sanh tâm trong sạch.
Tùy hỉ Phước: Một điều quý vị sẽ cảm thấy hết sức lạ lùng là trong kinh Phật dậy rằng một người làm phước và một người tùy hỷ với phước báu đó một cách chân thành thì hai người này đều có phước báu giống nhau. Có đôi khi chúng ta nghĩ rằng như vậy mình làm phước làm gì, đợi người khác làm rồi mình vui, nói theo nhân gian gọi là vui ké thì đủ rồi đâu cần làm. Thưa qúi vị, nếu chúng ta tính hơn thiệt, nhỏ to thì sự toan tính đó không làm cho chúng ta vui trọn vẹn, tại mình né tránh, một người đã thấy giá trị của thiện pháp, đã thấy giá trị của phước hạnh và người đó đã làm đã hoan hỷ rồi thì dầu người khác làm mình cũng hoan hỷ, bản thân mình làm cũng hoan hỷ bởi vì mình đã hoan hỷ một cách chân thành thì mình không ngần ngại gì để làm nếu mình có thể làm được. Lấy ví dụ là một người thấy người khác bố thí với tâm hoan hỷ thì tự họ thấy được giá trị của sự bố thí đó thì chắc chắn bản thân của họ cũng sẽ bố thí nếu họ có thể làm được, tâm tùy hỷ là tâm cứu mình trong nhiều trường hợp khi chúng ta rời bỏ thế giới này, mà chúng ta cần đến phước lành hay hồi hướng phước mà nếu chúng ta không có tâm tùy hỷ thì chúng ta cũng không thọ nhận được phước báu đó. Tâm tùy hỷ rất quan trọng nên một người hiểu đạo thì không đố kỵ hay ganh tỵ với người khác khi mình làm thiện, không may là ở tại các ngôi chùa thường thấy cảnh người này làm thì người kia không vui, không hổ trợ và người kia làm thì người này không hoan hỷ, đôi khi xảy ra như vậy thì là một điều đáng tiếc bởi vì trong chùa là nơi thiện pháp thể hiện rất nhiều từ trong những buổi trai tăng, thính pháp, thuyết pháp. Đại khái là một người có tâm trong sạch đi chùa ngày chủ nhật để nghe pháp thì chúng ta cũng nên vui để thấy rằng giờ phút này, trong thành phố này phần lớn người ta ở nhà để lo việc cá nhân riêng tư, không ai muốn đến chùa để nghe pháp học đạo mà những người này đến thì chúng ta cũng nên vui. Chính tâm hoan hỷ đó, chính niềm vui đó có ảnh hưởng lớn trong giờ phút lâm chung.
Bây giờ chúng tôi xin một ít giây phút để nói về những giờ phút sau cùng của chúng ta, có thể qúi Phật tử thường nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta là một sự cộng trừ nhân chia, nếu muốn đánh giá một người nào thì phải đánh giá toàn diện đời sống của họ chứ mình không thể nói một giai đoạn được hay một lúc được. Tuy vậy theo trong kinh Phật thì nghiệp báo có những giai đoạn đặc biệt quan trọng hơn những giai đoạn khác, trong những giây phút sau cùng gọi là cận tử nghiệp, giây phút lâm chung nó lại là một nhịp cầu để tiếp nối cho đời sống kế tiếp, nếu chúng ta rời bỏ thế giới này trong tâm từ buồn bã hối tiếc sân hận thì tâm tái sanh sẽ như vậy, nếu chúng ta rời bỏ thế giới này bằng tâm tư trong sạch tốt đẹp thì nó ảnh hưởng đến chúng ta một cách khác.
Ngài Bhuddaghosa ví dụ trong cuốn Thanh Tịnh Đạo: một chuồng chứa đầy bò khi mở cửa thì con bò nằm gần cửa nhất sẽ đi ra trước nhất. Một người hiểu đạo thường trong giây phút lâm chung đa phần là người ta thường có được sự hộ niệm, có sự trợ duyên để giữ được tâm trong sạch, ở giờ phút đó khi đối diện với cái chết những trạng thái thường đến với chúng ta là sự sợ hãi phải đối diện với tử thần hay là sự tiếc nuối tài sản hay quyến luyến con cái, hoặc giả chúng ta buồn bực bởi vì việc đó người ta không làm theo ý mình v.v…. thì phải nói rằng trong cơn bịnh hoạn, trong lúc chúng ta sắp chết thường là chúng ta rời bỏ thế giới này sau một lúc vật vã với bịnh hoạn của cơ thể lúc bấy giờ tâm tư của chúng ta thường rối loạn, có khi sợ hãi, có khi rất phiền muộn.
Nếu qúy Phật tử thường xuyên đi hộ niệm, thường xuyên chứng kiến những người trong giờ phút lâm chung thì chúng ta phải đi đến một kết luận rằng đa số những người rời bỏ thế giới này tâm tư của họ ít nhẹ nhàng trong sáng bởi vì lý do rất đơn giản là ai đối diện với các chết cũng run sợ và thường thường tiếc nuối cuộc sống của mình, có những người ái luyến đối với vợ, con, tài sản v.v…
Vì vậy một người tu Phật luôn luôn phải nhớ rằng những gì chúng ta có được để thu thập trong đời sống không quan trọng bằng những gì mà chúng ta có thể bỏ lại để ra đi, chúng ta càng bỏ nhiều thì tâm tư càng nhẹ nhàng và chỉ có người hiểu đạo thì giờ phút đó không chất chứa câu chấp vào những gì mình có, bởi vì đặc biệt là chúng ta rất ít khi trong giờ phút đối diện với cái chết kề mà tâm tư nhẹ nhàng được trong sáng, ngay cả thời Đức Phật có những người họ cảm thấy trong người mình không còn đủ sức sống nữa họ thường nhờ những người nhà đến để đảnh lễ Đức Phật và Chư Tăng để mong các Ngài vì lòng bi mẫn quan lâm hộ niệm. Trường hợp như ông Cấp Cô Độc thỉnh được Ngài Xá Lợi Phất đến thuyết pháp, về sau này chúng ta thấy có ghi trong Trung Bộ Kinh là bài Giáo Giới Cấp Cô Độc. Ở trong trường hợp này các vị tỳ khưu không thuyết pháp nhưng các Ngài đã tụng kinh hộ niệm bài kinh Tứ Niệm Xứ, một bài kinh mà chúng ta thường thấy trong Trung Bộ Kinh hoặc bài Đại Niệm Xứ trong Trường Bộ Kinh, thì việc tụng niệm như vậy đã được ghi nhận từ thời Đức Phật còn tại thế, và việc tụng niệm rất đơn giản. Ngày hôm nay tại các quốc gia Phật Gíao Nam Tông Chư Tăng vẫn còn duy trì việc tụng niệm này trong hình thức tương đối rất giản dị, thí dụ như một người sắp lâm chung thì Chư Tăng đến bên giường người bịnh để tụng một bài kinh nói về vô thường, khổ não, vô ngã, một bài kinh nói về Phật Pháp Tăng, bài kinh nói về sự tu tập, bài kinh có khi dài khi ngắn tùy theo vị trưởng lão hướng dẫn kinh, nhưng phần lớn người ta xem việc hộ niệm là quan trọng và nếu trong đời mình trong giây phút lâm chung có người hộ niệm tụng kinh hay thuyết pháp cho mình nghe thì đó cũng là một duyên may rất lớn, nên giây phút cận tử rất quan trọng đối với đời sống của chúng ta.
Đức Phật Ngài dậy rằng làm thiện phải có đặc tính là vô tham, vô sân, và vô si. Vô tham đặc tính là không dính mắc, vô sân là đặc tính mát mẻ, vô si là đặc tính sáng suốt, 3 đặc tính thiện pháp này được xem là đặc tính của trong sạch, một người làm thiện thì ngay trong giờ phút đó do sự trong sạch của tâm, tâm tư họ được an lạc và sau này họ cũng được an lạc, đặc biệt là nhớ nghĩ về thiện pháp của mình thì trong lòng còn hân hoan an lạc bội phần, niềm an lạc thì lớn hơn rất nhiều, nhưng muốn được như vậy thì người đó phải làm thiện và chẵng những làm thiện mà còn thấy được giá trị của điều thiện và chẳng những thấy được giá trị của điều thiện mà còn biết vui với điều thiện, những điều này đặc biệt có khả năng cứu giúp chúng ta trong lúc đối diện với cái chết, trong lúc chúng ta sắp sửa rời bỏ thế giới này. Có những khi chúng ta không thể trông cậy vào một ai khác mà mình phải tự cứu lấy chính mình.
Qúy vị nhớ rằng khi chúng ta đi học ở trong trường tâm tư của chúng ta càng ưa thích việc học, càng hoan hỷ với sự học thì chúng ta học nhanh, việc đó không ai giúp mình hết, tự mình phải giúp mình thôi, có những người ở trong hôn nhân không thành công được là vì họ có một cuộc sống hôn nhân rất mệt mỏi họ không thấy một sinh thú nào trong đời sống hôn nhân, có những người trong việc làm họ không tìm thấy sự phấn chấn nào, một sự hưng phấn nào hết mà họ chỉ thấy rằng kéo dài lê lết năm dài tháng rộng, có những người cả cuộc đời này chỉ là gánh nặng, mặc dù ở cuối cuộc đời họ có nuối tiếc, có cố gắng nắm giữ cuộc sống này, nhưng họ không có gì để thăng hoa đời sống của họ để làm cho nội tâm được thư thái. Đức Phật dậy rằng nếu chúng ta khéo thì mỗi thiện nghiệp đó giúp cho chúng ta, có chất liệu, có sức mạnh nâng cao được trình độ tâm linh nâng cao được niềm hoan hỷ, niềm tịnh tín và nhờ như vậy chúng ta có một cảnh giới an lạc ở trong đời tiếp nối của chúng ta.
Với phần đúc kết này, chúng tôi xin cầu nguyện phước lành được thấm nhuần trong tâm tư của mỗi chúng ta và cho dù ở bất cứ giờ phút nào trên đời sống này khi chúng ta nghĩ nhớ đến những thiện pháp đã làm thì chúng ta đều có tâm hồn hết sức hoan hỷ với những thiện pháp mình đã làm.
No comments:
Post a Comment