Wednesday, October 9, 2013

Làm như thế nào để chúng ta có thể duy trì được một trạng thái tâm đã thanh tịnh càng thanh tịnh ?

Hỏi: Làm như thế nào để chúng ta có thể duy trì được một trạng thái tâm đã thanh tịnh càng thanh tịnh và một trạng thái tâm đã bị cấu uế trở lên thanh tịnh để đem lợi ích cho mình và cho người khác? 

(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tuệ Siêu: Làm như thế nào để chúng ta có thể duy trì được một trạng thái tâm đã thanh tịnh càng thanh tịnh và một trạng thái tâm đã bị cấu uế trở lên thanh tịnh để đem lợi ích cho mình và cho người khác? Có những pháp môn tu tập sẽ giúp cho chúng ta gột rửa được những trạng thái tâm. Những sự tu tập đó là gì? Chúng ta có ba việc tu tập:
1. - Pháp tu tập thứ nhất là: Giới, tính chất của giới giống như hàng rào để ngăn chận sự xâm nhập của kẻ trộm như thế nào thì giới sẽ ngăn chặn sự xâm nhập của phiền não tạo nên những điều quấy ác. Như vậy, việc tu tập trước tiên là chúng ta phải giữ giới, chúng ta phải sống phản tỉnh phải xét lại thường xuyên về giới trong ngày mà chúng ta có thân hành, có khẩu hành, có ý hành. Những thân hành nào thuộc về thiện pháp có lợi ích được bậc thiện trí tán thán thì chúng ta duy trì hành động đó, còn thân hành nào bị bậc trí chỉ trích thì thuộc bất thiện pháp hại mình hại người, đưa đến khổ đau, chúng ta ngưng ngay hành động đó bằng giới. Lời nói (khẩu hành) cũng vậy nếu chúng ta thường xuyên cảnh tỉnh suy xét về lời nói của mình đã nói đang nói và sẽ nói xem coi lời nói đó có lợi hay bất lợi, đưa đến hạnh phúc hay đau khổ được người trí tán thán hay chỉ trích. Có suy xét như vậy chúng ta mới áp dụng lời nói, lời nói nào có lợi mình lợi người, lời nói nào đưa đến sự an lạc, lời nói nào mà được bậc thiện trí thức tán thán thì chúng ta nên nói lời nói đó, còn lời nói nào quấy bất thiện thì chúng ta nên từ bỏ. Chúng ta giữ giới tức là phải phản tỉnh tam nghiệp như vậy, phải phản tỉnh thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như vậy. Sự giữ giới đó mới giúp cho chúng ta gột rửa được những ác bất thiện pháp đã sanh và làm cho những thiện pháp đã sanh được duy trì. Đó là cách tu tập thứ nhất để giúp cho chúng ta tâm ý thanh tịnh.

2. - Pháp tu tập thứ hai là: Định. Tu tập về định có ba trường hợp: 
1)Tu tập về định thuộc chánh tinh tấn là luôn luôn phải biết khích lệ sách tấn nội tâm đừng để sự biếng nhác sanh khởi, sự biếng nhác ở đây là hôn trầm thụy miên tức là sự buồn ngủ dã dượi, khi trạng thái tâm buồn ngủ dã dượi đó thuộc về hôn trầm triền cái thì cũng giống như là nước đóng rong, nước ao tù lâu ngày sẽ đóng rong làm cho nước trở bẩn đục, đó là trạng thái tâm thụ động biếng nhác, mà tâm thụ động biếng nhác là điều nguy hại cho trí tuệ và trí nhớ phát triển. Hãy xem như là một sự cấu uế chúng ta phải cần đến chánh tinh tấn trong phần định học, hãy tu tập cái đó. Trong cuộc sống của chúng ta có đôi khi chúng ta nghĩ rằng mình siêng làm việc thì như vậy được gọi là tinh tấn, không phải như vậy, sự tinh tấn để làm cho tâm thanh tịnh đó tức là chúng ta phải làm sao có sự tinh tấn nỗ lực ở tâm, trạng thái tâm không bao giờ thụ động tiêu cực, không bao giờ chùng lại giống như lông chim gặp lửa thì bị quéo lại, chúng ta đừng nghĩ rằng trạng thái uể oải biếng nhác đó chỉ là một hiện tượng tâm sinh lý bình thường của một người khi làm việc quá nhiều rồi cơ thể sinh học có dấu hiệu đó để báo cho biết để nghỉ ngơi. Chúng ta cứ nghĩ như vậy thì xem chừng lâu ngày tâm của chúng ta sẽ muội lượt, trí nhớ và trí tuệ chúng ta sẽ bị cục bộ. Cho nên tu tập về định chi phần thuộc chánh tinh tấn rất quan trọng.
2)Tu tập về định chi phần thứ hai là tu tập chánh niệm-sammasati. Nếu mỗi ngày chúng ta đều trao dồi trí tuệ, trao dồi chánh niệm cho bén nhạy, nghĩa là khi đi, đứng, nằm, ngồi, đều có sự tỉnh táo nhận biết ý thức được hành động đang làm, trạng thái tâm hay là cảm thọ đang sanh khởi như thế nào ghi nhận như thế đó, thậm chí là hơi thở ra, hơi thở vào chúng ta cũng biết rõ đây là hơi thở đang thở ra, đây là hơi thở đang thở vào, chúng ta có chánh niệm như vậy. Chánh niệm được tu tập lâu ngày sẽ giúp cho trí nhớ của chúng ta bén nhạy. Những bậc thánh nhân những bậc đại nhân khi chánh niệm thuần thục bén nhạy vị đó có thể đạt đến một trí nhớ siêu nhân. Trí nhớ không phải nhớ những gì đã xảy ra trước đây trong kiếp sống này mà nhớ luôn cả những kiếp sống trong quá khứ như là túc mạng minh v.v... cái trí nhớ rất quan trọng, chúng ta duy trì trí nhớ bằng cách có chánh niệm. Bây giờ chúng ta tu tập chánh niệm là vừa, đừng để tâm bị phóng dật lâu ngày, mơ mộng suy nghĩ miên man. Chúng ta không kéo tâm trở về chánh niệm thì có thể là giờ về già sẽ bị lẫn, quên trước quên sau. Thường thường trong cuộc sống đôi khi chúng ta lại biện hộ binh vực và ca tụng về trạng thái chúng ta mất trí nhớ lãng trí. Thí dụ như trong tay cầm cái chìa khóa cửa mà chúng ta không hề nhớ biết cứ loay hoay đi tìm cái chìa khóa, rồi có người chỉ lúc bấy giờ mình mới nhận ra là cái chìa khóa đang cầm trong tay, rồi cười xòa bỏ qua. Chúng ta cười như vậy có đôi lúc cảm thấy hãnh diện vì bận công việc nhiều quá cho nên quên trước quên sau, chúng ta hãnh diện về điều đó, nhưng, chính cái hãnh diện đó là chúng ta dung túng cho trạng thái tâm cấu uế mất chánh niệm. Mất chánh niệm thì trí tuệ và trí nhớ của chúng ta sẽ giảm. Có những vị xuất gia thoạt đầu khi còn trẻ thì tâm của vị đó còn chánh nhiệm, còn có sự chú ý nhiều, nghĩa là không màn đến Phật tử đến cúng dường trai tăng lợi lộc phát sanh hay là không nghĩ đến chức sắc ở trong giáo hội v.v... thì lúc đó học kinh kệ rất nhiều rất sâu sắc, thuộc rất nhiều kinh điển nhưng rồi một thời gian sau lo làm công việc này công việc khác, bận rộn với việc trụ trì hay việc đi lễ hội chỗ này chỗ kia v.v... sắp xếp công việc bỏ quên cái hiện tại rồi lâu ngày bắt đầu quên chi pháp, có những câu chuyện những câu Phật ngôn mà mình đọc được trong Tăng Chi Bộ hay là Tương Ưng bộ kinh Trường bộ kinh v.v... hồi lúc còn nhỏ thì chúng ta nhớ kỹ lắm, nhưng đến khi chúng ta lớn tuổi rồi chúng ta quên mất. Cái quên đó chúng ta thường hay đổ thừa là tại vì cái thân già rồi cho nên bộ óc không được minh mẫn không được sáng suốt nhạy bén như hồi còn trẻ. Chúng ta đổ thừa cho cái thân bị già nhưng thực ra chính do vì chúng ta bỏ quên chánh niệm không chịu thường xuyên trao dồi chánh niệm cho nên chúng ta bị như vậy, chứ nếu là các vị A la hán hoặc như Đức Phật ở trong kinh điển giải thích rằng dầu cho Ngài đã lớn tuổi nhưng đối với các vị như Đức Phật lúc ấy tinh thần Ngài vẫn minh mẫn, đặc biệt Ngài còn minh mẫn đến độ mà Ngài thuyết pháp độ cho vị đệ tử cuối cùng là du sĩ Subhadda chứng Alahan quả và những gì mà Đức Thế Tôn Ngài đã truyền giảng trong ngày giờ cuối cùng những giây phút tối hậu đó cho đến ngày hôm nay chúng ta đọc qua chúng ta thấy vẫn mang một giá trị giải thoát như khi Đức Thế Tôn ở lúc tuổi đương thời. Ngài giác ngộ năm 35 tuổi và trong thời gian đó Ngài thuyết pháp cao siêu và hướng thượng như thế nào, khéo thuyết như thế nào thì khi tuổi về già 80 tuổi rồi pháp đó vẫn là pháp đó chứ không sai suyển không quên được, không có thể quên trước quên sau nói rồi mà quên đi lập lại lập lại như chúng ta. Người già của kẻ phàm phu chúng ta hay bị tình trạng nhiều khi có câu chuyện chúng ta mới nói ngày hôm qua với người ấy bữa nay gặp lại chúng ta nói nữa chúng ta kể nữa, chúng tôi gặp những người như vậy chúng tôi cũng sợ lắm. Và chúng ta nghĩ rằng khi chúng ta về già chắc chắn là phải bị như vậy nếu chúng ta bỏ quên chánh niệm. Cho nên người xưa có một danh nhân nói: "Tôi không sợ già mà tôi sợ cái tật của người già." Chúng ta đừng có sợ già, chỉ sợ cái mà chúng ta bỏ quên chánh niệm thôi, chúng ta hãy tu tập như thế.
3) Chánh định cũng là chi phần của định. Là chúng ta cố gắng làm sao tập trung tư tưởng, mỗi ngày chúng ta phải dành ra 5 phút để tập trung tư tưởng, 5 phút, 10 phút cũng được. Sự tập trung tư tưởng đó theo cách thiền chỉ cũng được và thiền quán cũng được. Nghĩa là chúng ta phải có sự định tâm, nhờ sự định tâm đó chúng ta sẽ làm việc sáng suốt minh mẫn. Nếu để cho tâm tán loạn lao chao phóng dật như vậy tâm không có được thanh tịnh. Cũng giống như ngọn đèn nếu đứng yên thì ngọn đèn đó sẽ toả ra ánh sáng, còn khi ngọn đèn trước gió nó cứ chập chờn chập chờn, như ngọn nến chẳng hạn để trước gió nó cứ chập chờn ngả bên đây ngả bên kia làm cho ánh sáng không được tỏ rõ. Thì định tâm cũng giống như ngọn đèn được giữ yên ánh sáng tỏa rõ ràng. Còn khi ánh sáng chập chờn ngọn đèn mà leo lét chập chờn thì cũng giống như trạng thái tâm phóng dật.
Cho nên, ở đây cách chúng ta tu tập về định để trí tuệ và trí nhớ của chúng ta duy trì và phát triển tốt là chúng ta phải có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
3. - Pháp thứ ba là tu tập về tuệ. Trí tuệ không phát sanh đến những người không suy luận chúng ta phải thường xuyên trao dồi. Trí tuệ chúng ta không phải là một đặc ân của trời cho mà cũng không phải là bẩm sinh người có trí tuệ rồi trí tuệ đó giữ vững mãi, không phải là như thế, trừ ra đối với một bậc giác ngộ bậc đã chứng đạo quả thì trí tuệ của vị đó là bất động trí, còn trí tuệ của phàm phu chúng ta thì luôn luôn bị giao động cho nên chúng ta phải tu tập về trí. Chúng ta tu tập về trí là tu tập về giới, định và tuệ.
Tu tập về tuệ ở đây chúng ta tu tập theo hai chi phần:
1 - Chi phần thứ nhất của tuệ - là chúng ta phải có chánh kiến. Chánh kiến là chúng ta phải suy xét đúng chỗ nào mà chúng ta có sự hoài nghi thì chúng ta nên hỏi lại, những cái gì chúng ta hiểu còn cạn thì cố gắng suy luận để hiểu cho sâu và hiểu theo hướng chân chánh, đúng pháp, đúng lý nhân quả. Và kinh điển Đức Thế Tôn đã thuyết giảng là kim chỉ nam cho chúng ta để chúng ta suy luận một cách chính xác. Thường thường thì chúng ta có một quan niệm rất sai lệch là chúng ta nghĩ rằng người tu tập theo pháp môn này theo hệ phái kia, hay là người có chánh kiến nếu đi theo hệ phái môn phái tông phái khác thì là người tà kiến. Điều đó không phải. Tà kiến và chánh kiến không phải dựa vào hình thức đó. Dầu cho người này đang ở trong phòng có tủ kinh điển Tam Tạng nhưng người này không chịu đọc và không chịu suy luận thì người này vẫn có tà kiến như thường. Chứ không phải nói rằng ở trong thư viện của chùa chúng tôi có đầy đủ Tam Tạng và chú giải thì chúng tôi sẽ là người có chánh kiến. Không phải như vậy. Mà là do chúng ta suy luận hoặc là do chúng ta nghe người khác giảng giải.
Nguyên nhân phát sanh lên chánh kiến có ba:
a) Một chúng ta nghe pháp từ nơi người khác, nghe người khác giảng giải phân tích, chúng ta hiểu rồi phát sanh ra chánh kiến. 
b) Thứ hai, khéo tác ý mà phát sanh ra chánh kiến tức là khéo suy luận và khi chúng ta có được cái nhìn chân chánh thì lúc bấy giờ sẽ giúp chúng ta duy trì được trí nhớ và trí tuệ. Ở đây, có một loại chánh kiến chúng tôi xin mách nước cho qúi vị. Qúi vị làm sao nhớ cho một điều là hễ ở trong cuộc sống cái gì xảy ra chúng ta đều suy xét bằng cách là pháp hữu vi là vô thường, có sanh thì có diệt, cái gì có sanh khởi thì cái đó phải bị hoại diệt. Chúng ta suy xét về tánh chất vô thường thì đó cũng là một yếu tố phát sanh lên chánh kiến. Rồi chúng ta suy xét về sự khổ ở trong cuộc đời, cái gì vô thường biến hoại thì cái đó mang tánh chất khổ, thương phải xa ghét phải gần, hay là già bị bệnh, bị chết, bị người khác đánh đập v.v... thì cái nào cũng phải khổ cả. Khi chúng ta đang dự tiệc vui, trong tiệc vui đó chúng ta phải biết có cái mầm đau khổ là bởi vì cuộc vui nào cũng tàn, cuộc họp nào rồi cũng tan. Chúng ta cứ tập suy xét. Hoàn cảnh nào chúng ta cũng thấy có cái khổ ở trong đó, tế nhị nhất là cái khổ trong pháp vô thường chúng ta cũng phải thấy như vậy thì phát sanh lên chánh kiến.
c) Điều thứ ba là, muốn phát sanh chánh kiến thì chúng ta phải thường xuyên tu tập quán thấy sự vô ngã. Quán thấy vô ngã là chúng ta nên biết rằng không có pháp hữu vi nào mà không có duyên trợ tạo tác. Hễ là pháp hữu vi thì đó là pháp hữu duyên. Mà hễ là pháp hữu duyên thì nó theo cái định lý, do cái này có mặt cái kia mới có mặt, do cái kia có mặt thì cái nọ mới có mặt, hễ cái này diệt thì cái kia diệt, cái kia diệt thì cái nọ diệt, duyên hệ và duyên sinh như thế. Như vậy tất cả đều là rỗng không. Pháp hữu vi cũng giống như một đống cát thấy một đống cát vụn, với thân ngũ uẩn này chúng ta tập suy xét về vô thường, khổ não, và vô ngã thường xuyên như thế thì chúng ta sẽ phát sanh chánh kiến.
2 - Chi phần thứ hai của tuệ - là chúng ta tu tập chánh tư duy, hễ mỗi lần suy nghĩ cái gì thì phải là suy nghĩ với tư tưởng ly dục không đắm nhiễm, mỗi lần suy nghĩ là suy nghĩ bằng tâm mát mẻ bằng trạng thái không sân hận, rồi chúng ta phải suy nghĩ với tư tưởng bất hại, không nên tối ngày từ sáng đến chiều lo suy nghĩ thù hận người này ghét người kia, tìm mưu này kế nọ làm cho chúng sanh khác đau khổ để trả thù để cho hả giận v.v... Tư duy của chúng ta hàng ngày là phải ly dục tư duy, vô sân tư duy, và bất hại tư duy, chúng ta tu tập như thế thì thử hỏi làm sao tâm chúng ta lâu ngày không được thanh tịnh, với một người mà tư duy vô tham, tư duy ly dục, tư duy vô sân, và tư duy bất hại thì trí tuệ càng lúc càng sáng lên bởi vì đó là mảnh đất phong phú màu mở là một giòng nước trong suốt có thể thấy được tới đáy hồ hay đáy suối đáy sông.
Ở đây chúng ta cần phải hiểu giá trị của tâm thanh tịnh đem đến nhiều lợi lạc cho mình và cho người khác: trước nhất là để duy trì trí nhớ, hai là để làm sao duy trì trí nhớ và trí tuệ tốt để chúng ta có trí tuệ sáng suốt minh mẫn, từ lúc còn trẻ cho đến khi trung niên cho đến khi lão niên lúc nào trí tuệ trí nhớ của chúng ta cũng sáng suốt minh mẫn tỉnh táo thì đó là một điều tốt. Còn nếu chúng ta không tu tập theo giới, theo định, theo tuệ, bằng cách này thì như vậy là đã khuấy đục nội tâm này làm cho trí nhớ trước đây bị giảm thiểu xuống và mất đi, thì nó sẽ đưa đến hại mình hại người./.

No comments:

Post a Comment